Đây làdanh sách lãnh tụ Liên Xô, gồm những người từng nắm quyền lực tối cao ởLiên Xô. Thực tế đó là những người đứng đầu Ủy ban Trung ươngĐảng Cộng sản Liên Xô.
Cơ cấu quyền lực ởLiên Xô có ba nhánh chính, dẫn đến 3 vị trí cao nhất.
Đứng đầu nhánh hành pháp (chính phủ) làChủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng). ThờiLenin chức vụ này, lúc đó gọi là Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ, là vị trí số 1 vì thực chất Lenin (Chủ tịch Hội đồng dân ủy) là lãnh tụ đảngBolshevik từ khởi thủy.
Chức vụTổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô được lập ra tháng 4 năm1922 nhưng sau khi Lenin qua đời mới trở thành quan trọng nhất. (Trong khoảng từ1952 đến tháng 4 năm1966, chức vụ này được gọi là Bí thư thứ nhất.) Vị trí đó đã tạo điều kiện choStalin tiêu diệt "đội cận vệ già", trục xuấtLev Davidovich Trotsky (Лев Давидович Троцкий) và thâu tóm quyền lực vô hạn. Về sau ông được xưng tụng là "lãnh tụ dân tộc" thì thậm chí không dùng danh hiệu Tổng bí thư nữa[1]. Về mặt chính quyền, Stalin giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, vì thế khi Stalin chết,Malenkov thay ông ở chức vụ này, lúc đầu được xem là lãnh tụ mới. Malenkov giữ chức này đến tận1955, nhưng thực tế từ tháng 9 năm1953 thực quyền về tayKhruschov. Trước đóLavrenty Pavlovich Beria (Лаврентий Павлович Берия, bộ trưởng nội vụ do Stalin cất nhắc) cố gắng tập trung quyền lực trong đảng, nhưng Khruschov cầm đầu phe chống lại, bắt giữ Beria (tháng 6 năm 1953), và do đó nắm được quyền lãnh đạo tối cao, khẳng định vị trí số 1 của chức vụ Bí thư thứ nhất. Chức vụ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng không còn là quan trọng nhất nữa, mặc dù từ tháng 3 năm1958 Khruschev cũng kiêm luôn chức này.
Về mặt pháp lý thì nguyên thủ quốc gia do Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô đảm nhiệm, sau là Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô (phương Tây gọi một cách không chính thức làChủ tịch Liên Xô). Trên lý thuyết đó là vị trí cao nhất, do lẽXô viết Tối cao là quốc hội, tức cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân, theo Hiến pháp Liên Xô. TừBrezhnev trở đi, các Tổng bí thư kiêm chức vụ này, tức vừa có thực quyền số 1, vừa là nguyên thủ chính thức.
Ngày14 tháng 3 năm1990, Đại hội Đại biểu Nhân dân (mới bầu ra năm1989) bỏ phiếu chấm dứt sự kiểm soát của Đảng Cộng sản trên chính quyền và bầuGorbachov làmTổng thống Liên Xô. Chức vụ này trở thành nguyên thủ, từ đó Chủ tịch Xô viết Tối cao chỉ còn là chủ tịch quốc hội, đứng đầu nhánh lập pháp.[2]
Việc lãnh tụ Đảng Cộng sản thường kiêm giữ một vị trí khác khiến phương Tây hay nhầm lẫn về nhân vật số 1 của Liên Xô: Lenin, Stalin, Malenkov và Khrushchov kiêm chức thủ tướng, còn Brezhnev và những người kế nhiệm kiêm chức chủ tịch.
| Tên | Chức vụ | Thời kỳ | Thời gian tại nhiệm |
|---|
| Bắt đầu | Kết thúc |
|---|
| Vladimir Iliych Lenin (1870-1924) | Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ[3] | 8 tháng 11 năm1917 | 21 tháng 1 năm1924 | 6 năm, 74 ngày |
| Iosif Vissarionovich Stalin (1878-1953) | Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 3 tháng 4 năm1922 | 16 tháng 10 năm1952 | 30 năm, 196 ngày |
| Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | 6 tháng 5 năm1941 | 5 tháng 3 năm1953 | 11 năm, 303 ngày |
| Georgy Maksimilianovich Malenkov (1902-1988) | Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 1 tháng 7 năm1948 | 14 tháng 3 năm1953 | 4 năm, 256 ngày |
| Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | 5 tháng 3 năm1953 | 8 tháng 2 năm1955 | 1 năm, 340 ngày |
| Nikita Sergeyevich Khrushchov (1894-1971) | Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô | 7 tháng 9 năm1953 | 14 tháng 10 năm1964 | 11 năm, 37 ngày |
| Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | 27 tháng 3 năm1958 | 14 tháng 10 năm1964 | 6 năm, 201 ngày |
| Leonid Ilyich Brezhnev (1906-1982) | Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô | 14 tháng 10 năm1964 | 8 tháng 4 năm1966 | 1 năm, 176 ngày |
| Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 8 tháng 4 năm1966 | 10 tháng 11 năm1982 | 16 năm, 216 ngày |
| Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô | 16 tháng 6 năm1977 | 10 tháng 11 năm1982 | 5 năm, 147 ngày |
| Yuri Vladimirovich Andropov (1914-1984) | Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 12 tháng 11 năm1982 | 9 tháng 2 năm1984 | 1 năm, 89 ngày |
| Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô | 6 tháng 6 năm1983 | 9 tháng 2 năm1984 | 248 ngày |
| Konstantin Ustinovich Chernenko (1911-1985) | Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 13 tháng 2 năm1984 | 10 tháng 3 năm1985 | 1 năm, 25 ngày |
| Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô | 11 tháng 4 năm1984 | 10 tháng 3 năm1985 | 333 ngày |
| Mikhail Sergeyevich Gorbachov (1931-2022) | Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô | 11 tháng 3 năm1985 | 24 tháng 8 năm1991 | 6 năm, 166 ngày |
| Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô | 1 tháng 10 năm1988 | 25 tháng 5 năm1989 | 236 ngày |
| Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô | 25 tháng 5 năm1989 | 15 tháng 3 năm1990 | 294 ngày |
| Tổng thống Liên Xô | 15 tháng 3 năm1990 | 25 tháng 12 năm1991 | 1 năm, 285 ngày |
- ^ Stalin không dùng danh hiệu Tổng bí thư nữa mà chỉ ký "I. Stalin, bí thư", tỏ ra rằng tên của ông có sức nặng hơn tính từ "tổng".
- ^ Trước kia, Xô viết Tối cao Liên Xô họp xuân thu nhị kỳ (gần nhưQuốc hội Việt Nam bây giờ), Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao họp thường xuyên (như Ủy ban Thường vụ Quốc hội VN). Năm1989, Liên Xô bầu quốc hội gọi là Đại hội Đại biểu Nhân dân thì Xô viết Tối cao đóng vai trò như Đoàn chủ tịch hồi trước (bỏ Đoàn chủ tịch).
- ^ Năm1922 mới thành lậpLiên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Từ1918 đến 1922 tiền thân của nó là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (sau năm 1922 CHXHCNXVLB Nga là một trong 15 nước cộng hoà trong Liên bang Xô viết). TừCách mạng tháng Hai năm1917 quốc gia này là nướcCộng hoà Nga, nhưng sauCách mạng tháng Mười thì thường được gọi lànước Nga Xô viết.
Về lãnh tụ của 15 quốc gia độc lập tách ra từ Liên bang Xô viết, xin xem các mục từ sau: