Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Dãy núi Ural

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vị trí mạch núi U-ran ở Nga
Mạch núi từ bắc đến nam chia làm 5 khúc núi Cực địa U-ran, núi Á cực địa U-ran và núi Bắc, Trung, Nam Ural

Dãy núi Ural, hoặc gọimạch núi U-ran, là đường phân giới hai châu lụcchâu Âuchâu Á. Phía bắc bắt đầu vịnh Baydaratskaya ởbiển Ca-ra, phía nam cho đến khu vựcthảo nguyên Kazakh, dài dằng dặc 2.500 kilômét, làm trung gian giữađồng bằng Đông Âuđồng bằng Tây Siberia.[1] Mạch núi từ bắc đến nam chia làm 5 khúc núi Cực địa U-ran, núi Á cực địa U-ran và núi Bắc, Trung, Nam U-ran. Chiều cao so với mức mặt biển trung bình từ 500 đến 1.200 mét; đỉnh núi Narodnaya cao 1.894 mét ở núi Á cực địa Ural làđỉnh núi cao nhất của mạch núi U-ran. Bề ngang của mạch núi là 40 đến 150 kilômét. Khúc giữa thấp phẳng, là đường giao thông trọng yếu của hai châu lụcchâu Âuchâu Á. Sườn tây của mạch núi U-ran khá thoai thoải, sườn đông dốc gần như thẳng đứng. Sự phân bố tài nguyên khoáng sản vàđộngthực vật ở hai cạnh bên mạch núi U-ran có khác biệt rõ ràng. Mạch núi U-ran vẫn làđường phân thủy của lưu vựcsông Vôn-ga,sông U-ran ở sườn tây vàsông Ô-bi ở sườn đông.

Dãy Ural

Địa chất

[sửa |sửa mã nguồn]

Mạch núi U-ran hình thành vàoKỉ Than đá,[2][3][4][5] lúc đóSiberia ngày nay là một khối đất liền độc lập, xô đụng nhau với một phầnlục địa Siêu cấp lúc ấy -châu Âu ngày nay, rồi hình thành mạch núi U-ran. Đến nay chỉ cóchâu ÂuSiberia vẫn nối liền lẫn nhau.Đảo Tân Địa ở giữabiển Ca-rabiển Barents trên thật tế là sự duỗi dài của mạch núi Ural.

Mạch núi Ural mở đầu hình thành vào thời gian nhô lên mang tính kết cấu của vận động tạo núi Variscan (chừng 250 triệu năm về trước). Khoảng chừng 280 triệu năm về trước, chỗ này nhô lên một khu vực núi cao, nó lại bịxâm chiếm ăn mòn biến thành đồng bằng xấp xỉ.Vận động tạo núi An-pơ đã hình thành đất đồi núi mới, rõ ràng nhất chính là sự nhô lên đất đồi núi của núi Á cực địa U-ran.

Sườn tây mạch núi U-ran, bên trong cóđá trầm tích vào kì giữaĐại Cổ sinh khoảng chừng 350 triệu năm tạo thành nên. Mạch núi U-ran về phía tây làsụt lún Cis-Ural, vào cuối kìĐại Cổ sinh (chừng 300 triệu năm trước) có rất nhiều vật chất bịxâm chiếm ăn mòn bịbồi tích đến chỗ này; vào năm 1988 rất nhiều địa phương ở sườn tây mạch núi đều lộ ra đất bậc thềm, dần dần xuống thấp từng bậc xuyên quasụt lún Cis-Ural. Sườn tây đi đến nơi cócác-xtơ (khu vựcđá vôi bịxâm chiếm ăn mòn hoàn toàn) vàthạch cao, mang theo mìnhhang động và dòngsuối dưới đất cực kì to lớn. Ở sườn đông, tầngđá núi lửa và tầngđá trầm tích thay phiên chồng chất lẫn nhau, chúng nó đều là do kì giữaĐại Cổ sinh hình thành nên.[6]

Cácnham thạch này đã tạo thànhnếp lồi phức Tagil-Magnitogorsk (là một nhóm đá vòng cung và đá máng, bản thân nó cũng hình thành thung lũng hình dạng chữ U), nó là nếp lồi phức lớn nhất trong cả mạch núi. Sườn đông của núi Trung Ural và Nam Ural cong ngoằn làm thành gò đồi chân núi kiểu đồng bằng xấp xỉ, chỗ này thông thường có sự phô bày củađá hoa cương, cũng thường xuyên có đỉnh núi đơn độc hình trạng kì dị. Ở phía bắc, đồng bằng xấp xỉ bị chôn vùi dướivật trầm tích củađồng bằng Tây Siberia lỏng lẻo rời rạc và dễ vỡ thành hình dạng bột vụn.

Địa hình có quan hệ lớn với thành phần cấu tạo củađá: đồi núi cao chót vót và sống núi thấp lùn, đỉnh bằng phẳng là dođá thạch anh,đá phiến,đá huy trường tạo thành, cácnham thạch này không dễ phong hoá. Đỉnh núi đơn độc rất hay thấy; có một ít thung lũng hình dạng chữ U hướng bắc - nam, trong đó hầu như đều có thung lũng sông.[1] Sườn tây của cả mạch núi, phát triển cao độ địa hìnhcác-xtơ, có rất nhiềuhang hốc, bồn địa và dòng suối dưới đất.

Tuy nhiên địa tầngcác-xtơ ở sườn đông khá ít, trái lại có có các tầng nham thạch lên cao để lộ phía trên mặt đất bằng phẳng. Ở phía đông, gò đồi chân núi rộng lớn đã xuống thấp làm thành đồng bằng xấp xỉ nối liền không gián đoạn núi Trung U-ran và núi Nam U-ran.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abUral Mountains, Encyclopædia Britannica on-line
  2. ^Brown, D. and Echtler, H. (2005). "The Urals". Trong Selley, R. C.; Cocks, L. R. M. and Plimer, I. R. (biên tập).Encyclopedia of Geology. Quyển 2. Elsevier. tr. 86–95.ISBN 978-0126363807.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  3. ^Cocks, L. R. M. and Torsvik, T. H. (2006). "European geography in a global context from the Vendian to the end of the Palaeozoic". Trong Gee, D. G. and Stephenson, R. A. (biên tập).European Lithosphere Dynamics(PDF). Quyển 32. Geological Society of London. tr. 83–95.ISBN 978-1862392120.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2020.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^Puchkov, V. N. (2009)."The evolution of the Uralian orogen".Geological Society, London, Special Publications. Quyển 327. tr. 161–195.doi:10.1144/SP327.9.
  5. ^Brown, D.; Juhlin, C.; Ayala, C.; Tryggvason, A.; Bea, F.; Alvarez-Marron, J.; Carbonell, R.; Seward, D.; Glasmacher, U.; Puchkov, V.; Perez-Estaun, sexbombA. (2008)."Mountain building processes during continent–continent collision in the Uralides".Earth-Science Reviews. Quyển 89 số 3–4. tr. 177.doi:10.1016/j.earscirev.2008.05.001.
  6. ^"Ural (geographical)".Great Soviet Encyclopedia.Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2016.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềDãy núi Ural.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Dãy_núi_Ural&oldid=70773544
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp