Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từChiến tranh Việt–Xiêm (1841-1845))
Chiến tranh Xiêm–Việt (1840–1845)
Một phần củaChiến tranh Xiêm–ViệtCác cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia

Bản đồ cho thấy sự di chuyển của quân đội Việt Nam (từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1845) trong Chiến tranh Xiêm–Việt (1841–1845).
Thời gian3 tháng 11 năm 1840[1] – 1845
Địa điểm
Kết quả
  • Campuchia nằm dưới quyền bá chủ chung của Xiêm và Đại Nam.
  • Campuchia bán độc lập (Trấn Tây Thành) trở thànhvùng đệm giữa Xiêm và Đại Nam.
Tham chiến
Nhà Nguyễn
Lực lượng Khmer thân Nguyễn
Vương quốc Rattanakosin (Xiêm)
Lực lượng Khmer chống Nguyễn
Chỉ huy và lãnh đạo
Hoàng đếThiệu Trị
Trương Minh Giảng
Lê Văn Đức
Phạm Văn Điển
Nguyễn Công Nhân
Nguyễn Công Trứ
Võ Văn Giải
Nguyễn Tri Phương
Nguyễn Tiến Lâm
Nguyễn Văn Hoàng
Doãn Uẩn
Tôn Thất Nghị
Nữ vương, hoàng thân và đại thần Campuchia:
Ang Mey
Ang Em
Chaofa Talaha (Lung)
VuaNangklao
Chao Phraya Bodindecha (Sing Sinhaseni)
Kromma Khun Isaret-rangsant
Chao Phraya Nakhon Ratchasima Thong-in
Chao Phraya Yommaraj Bunnak
Phra Promborrirak
Chameun Waiworanat (Chuang Bunnag)
Ang Duong
Thành phần tham chiến
Quân đội nhà Nguyễn Quân đội Hoàng gia Xiêm La
Lực lượng
Khi khởi đầu chiến tranh: 5.000 binh sĩ Đại Nam
1.600 binh sĩ Chăm–Mã Lai
Tổng cộng (1841): 6.600
Cuộc tấn công mùa khô năm 1845: 20.000
35.000 lính Xiêm
Thương vong và tổn thất
Không rõKhông rõ

Chiến tranh Xiêm–Việt 1840–1845 (tiếng Thái:อานามสยามยุทธ (พ.ศ. 2383 – พ.ศ. 2388), tiếng Việt:Chiến tranh Việt–Xiêm (1840–1845),tiếng Khmer:សង្គ្រាមសៀម-យួន (១៨៤០-១៨៤៥)) là một cuộc xung đột quân sự giữaĐại Nam dưới triều Hoàng đếThiệu TrịVương quốc Xiêm dưới triều vuaNangklao nhàChakri. Sự đối địch giữa Đại Nam và Xiêm trong việc kiểm soát vùng trung tâm Campuchia ở hạ lưu lưu vực sông Mê Kông trở nên gay gắt hơn sau khi Xiêm đã từng tìm cách chinh phục Campuchia trong cuộc chiến1833–1834. Năm 1834, Hoàng đếMinh Mạng của Việt Nam lập công chúaAng Mey làm nữ vương bù nhìn của Campuchia, đồng thời tuyên bố quyền bá chủ hoàn toàn đối với Campuchia, hạ Campuchia xuống thành một tỉnh của Việt Nam, gọi làTrấn Tây Thành.[2]

Đến năm 1840, Xiêm lợi dụng sự bất mãn để hỗ trợcuộc nổi dậy của người Khmer chống lại ách thống trị của Đại Nam. VuaNangklao đã phái quân đội sang để đưa hoàng tửAng Duong lên ngôi vua Campuchia. Sau bốn nămchiến tranh hao mòn, cả hai bên đều đồng ý thỏa hiệp và đặt Campuchia dưới sự cai trị chung.[3][4][5][6]

Bối cảnh

[sửa |sửa mã nguồn]

Xung đột Xiêm – Việt về vấn đề Campuchia

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chiến tranh Xiêm–ViệtCuộc binh biến ở Campuchia (1812–1813)

Vương quốc Khmer huy hoàng một thời, bước sang thế kỷ 18 đã ngày càng suy yếu chịu ảnh hưởng từ hai nước láng giềng Việt Nam từ phía đông và Xiêm La từ phía tây. Những tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc Campuchia làm trầm trọng thêm xung đột,[7] khi mỗi bên đều tìm kiếm sự hậu thuẫn và bị thao túng bởi Xiêm hoặc Việt. Năm 1794, vua Phuttha Yotfa Chulalok (Rama I) của Xiêm lập hoàng tử trẻAng Eng lên ngôi Quốc vương Campuchia dưới sự bảo hộ của Xiêm.[8][9][10] Nhân dịp đó, Xiêm triều còn cắt vùng đất phía tây bắc Campuchia, gồmBattambangSiemreap, giao choChaophraya Aphaiphubet - một đại thần thân Xiêm - quản lý và chịu trách nhiệm trực tiếp với Xiêm triều. Từ đó trở đi, vùng tây bắc Campuchia bị sáp nhập một cách không chính thức vào Xiêm. Vua Ang Eng mất sớm vào năm 1797, để lại bốn người con trai:Ang Chan,Ang Snguon,Ang EmAng Duong. Ang Chan được vua Xiêm đưa lên ngai vàng vào năm 1806, nhưng ông dần tỏ ra bất mãn trước ảnh hưởng của Xiêm tại Campuchia và ngả sang phía Việt Nam, lúc này đang ở những năm đầu của triều Nguyễn. Ang Chan từ chối dự tang lễ của vuaPhuttha Yotfa Chulalok năm 1809, đồng thời xử tử các đại thần thân Xiêm, đồng nghĩa với việc công khai lập trường chống Xiêm của mình.[10]

Năm 1812, Hoàng đệ Ang Snguon, người em trai cùng cha cùng mẹ của Ang Chan, đãnổi loạn chống lại ông.[2] Quân Xiêm tiến vào Campuchia năm 1812 để ủng hộ Ang Snguon, còn vua Ang Chan phải chạy sangGia Định thành nương nhờ người Việt.[11] Quân Xiêm đốt phá kinh đôOudong rồi rút quân. Hai hoàng tử Ang Em và Ang Duong, các em trai khác của Ang Chan, quyết định theo phe Ang Snguon và sang Bangkok chịu sự quản thúc của Xiêm.[8] Hoàng đếGia Long của Việt Nam sau đó cửLê Văn Duyệt đem quân sang khôi phục ngôi báu cho Ang Chan năm 1813.[7] Từ đó, Campuchia rơi vào vòng ảnh hưởng của Việt Nam, và Ang Chan dời đô vềPhnom Penh để gần gũi hơn với sự bảo hộ của triều đình Huế.[8] Lê Văn Duyệt cho xây một thành mới ở Phnom Penh gọi là Banteay Keav để làm kinh đô mới cho Ang Chan. Năm 1819, Gia Long hạ lệnh đàoKênh Vĩnh Tế nốiChâu Đốc vớiHà Tiên trên biên giới Campuchia – Việt Nam,[6] bắt dân Campuchia đi phu đào kênh. Triều đình Xiêm ởBangkok vô cùng lo ngại về công trình này, nghi ngờ rằng người Việt xây nó với ý đồ tạo điều kiện cho thủy quân Đại Nam tiến raVịnh Xiêm, đe dọa đến kinh đô Bangkok trong tương lai.

Cuộc xâm lược Campuchia và Nam Kỳ của Xiêm (1833–1834)

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chiến tranh Xiêm – Việt (1833–1834)

Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành và nắm ảnh hưởng lớn tại Campuchia, qua đời năm 1832.[12] Vua Minh Mạng bổ nhiệm quan lại từ Huế đến thay thế Lê Văn Duyệt ở Gia Định, những người này sớm phát hiện Duyệt nắm quyền lực quá lớn và đã đưa ra cáo buộc đối với vị đại thần quá cố,[2][12] dẫn đến cuộc thanh trừng chính trị lớn trong nội bộ Việt Nam. Thi hài Lê Văn Duyệt bị khai quật lên khỏi mộ và lăng nhục.Lê Văn Khôi, con nuôi của Duyệt, đã nổi dậy ở Sài Gòn chống lại triều Nguyễn năm 1833, đó là cuộcKhởi nghĩa Lê Văn Khôi. Minh Mạng cử tướng đem quân dẹp loạn vào giữa năm 1833, quân nổi dậy liền cầu viện Xiêm triều trợ giúp.[13]

Quân Xiêm xâm lược Campuchia vàNam Kỳ bằng đường bộ và đường thủy từ tháng 11 năm 1833 đến tháng 1 năm 1834. Quân Xiêm bị quân Đại Nam đánh bại trongTrận Vàm Nao vào tháng 1–2 năm 1834.

Vua Nangklao, tứcRama III củaVương triều Rattanakosin, khi hay tin về cuộc nổi dậy ở Sài Gòn, đã nắm cơ hội này để phá bỏ ảnh hưởng của Việt Nam tại Campuchia bằng cách viện trợ cho Lê Văn Khôi.[9] Tháng 11 năm 1833, Xiêm triều cửChao Phraya Bodindecha chỉ huy lục quân 40.000 người,[1] mang theo các hoàng tử Campuchia là Ang Em và Ang Duong để xâm lược Campuchia, cònChao Phraya Phrakhlang chỉ huy hải quân 10.000 người[1] tiến đánh cảng Hà Tiên của Đại Nam. Vua Campuchia Ang Chan phải bỏ chạy khỏi Phnom Penh lánh nạn ởVĩnh Long khi quân Xiêm chiếm thành Banteay Keav tại Phnom Penh, đưa các hoàng thân thân Xiêm Ang Em và Ang Duong lên cai trị ở đó. Quân Xiêm nhanh chóng chiếm Hà Tiên, Châu Đốc rồi theosông Bassac tiến vào Nam Kỳ, khiến quân Đại Nam bị bất ngờ. Hoàng đế Minh Mạng, vốn đang tập trung dẹp loạn Lê Văn Khôi ở Sài Gòn, buộc phải điều một số binh dưới quyền Nguyễn Xuân vàTrương Minh Giảng đi chống lại quân Xiêm.

Bodindecha điều một phần quân dưới quyền Chao Phraya Nakhon Ratchasima và Phraya Ratchanikun tiến theo đường bộ đếnBa Phnum để đánh Sài Gòn, trong khi chính Bodindecha hợp cùng Phrakhlang ở Châu Đốc. Quân Xiêm dưới quyền Bodindecha và Phrakhlang theo đường thủy từ Châu Đốc xuống sông Bassac, vượt kênhVàm Nao vàoMê Kông tiến về Sài Gòn, nơi quân Xiêm và quân Đại Nam giao chiến trongTrận Vàm Nao tháng 1 năm 1834. Quân Xiêm đại bại, phải rút lui về Campuchia, xoay chuyển cục diện chiến tranh có lợi cho Đại Nam. Người Campuchia dưới quyền Oknha Chakrey Long và Yumreach Hu phục kích và đánh du kích vào quân Xiêm đang rút, đặc biệt là cánh quân lạc đường của Nakhon Ratchasima và Ratchanikun tại Smaong (tỉnhPrey Veng ngày nay). Để trả đũa, Bodindecha ra lệnh phá hủy thành Banteay Keav ở Phnom Penh và bắt người Khmer[14] dọc tuyến rút quân làm tù binh để bù đắp thất bại của quân Xiêm.

Tháng 2 năm 1834, Bodindecha cố thủ tại Pursat, trong khi Phrakhlang rút vềChanthaburi. Quân Campuchia – Việt Nam dưới quyền Nguyễn Xuân, Trương Minh Giảng và Oknha Chakrey Long nhân đà thắng lợi truy kích quân Xiêm đến tận biên giới Campuchia. Quân Đại Nam đưa vua Ang Chan đang lánh nạn tại Vĩnh Long, trở về Phnom Penh khôi phục ngôi vị. Đến tháng 4 năm 1834, Bodindecha cùng Ang Em và Ang Duong rút quân về Battambang,[11] chấm dứt cuộc viễn chinh bất thành. Ang Chan ban thưởng cho các công thần Oknha Chakrey Long và Yumreach Hu, lần lượt phong họ làm Chauvea Tolaha (Tể tướng) và Samdech Chauponhea (Phó tể tướng). Khi trở lại Phnom Penh, Ang Chan thấy cung điện Banteay Keav – nơi Lê Văn Duyệt từng xây cho ông năm 1813 – đã bị Xiêm phá hủy và đốt sạch. Ang Chan bèn dựng cung điện tạm ở Po Preah Bat, đối diện Phnom Penh trên đảo Slaket.

Việt Nam chiếm đóng Campuchia

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Trấn Tây Thành
Bản đồ Campuchia dưới dạngTỉnh Trấn Tây do Đại Nam chiếm đóng

Vua Ang Chan mất vào tháng 1 năm 1835,[11] chỉ để lại bốn người con gái: Trưởng nữ Ang Pen có mẹ là Neak Neang Tep, con gái của Chaophraya Aphaiphubet (viên quan Campuchia thân Xiêm, từng cai quản Battambang do Xiêm kiểm soát và mất năm 1809),[11] Thứ nữAng Mey, hai người còn lại là Ang Peou và Ang Snguon, đều do các phi tần khác nhau của Ang Chan sinh ra.[15] Những người có tư cách kế vị ngai vàng nhất lúc này là hai người em trai của Ang Chan, Ang Em và Ang Duong – thì đang cư ngụ ở Battambang dưới sự khống chế của Xiêm (Ang Snguon đã qua đời trước đó vào năm 1822). Điều này khiến người Việt không còn ứng cử viên nam nào để lập làm vua Campuchia.

Tháng 5 năm 1835,Minh Mạng phong cho công chúa Ang Mey làm Nữ vương bù nhìn của Campuchia với tước hiệu Quận chúa[15] (郡主), trở thành nữ quân chủ duy nhất trong lịch sử Campuchia.[16] Lý do triều đình Huế cố ý gạt bỏ trưởng công chúa Ang Pen là vì bà có quan hệ thân thiết với người Xiêm.[15] Ba công chúa còn lại được phong tước Huyện quân (縣君). Không lâu sau vào tháng 11 năm 1835, theo đề nghị của Trương Minh Giảng, Minh Mạng lập ra thànhTrấn Tây (鎮西) trên đất Campuchia, đặt Campuchia dưới sự cai trị trực tiếp của Đại Nam và chia thành 33 phủ cùng 2 man. Minh Mạng cũng bổ nhiệm Trương Minh Giảng làm Trấn Tây tướng quân (鎮西將軍, gọi theo dân gian là Ông Tiền Quân) – Tổng đốc tối cao tại Campuchia. Vì thành Banteay Keav ở Phnom Penh – hoàng cung của Ang Chan – đã bị quân Xiêm phá hủy năm 1834, xây dựng một thành mới gọi là Trấn Tây tại Phnom Penh làm trung tâm hành chính cai trị Campuchia.[17] Tuy nhiên, Ang Mey và các chị em vẫn ở cung Po Preah Bat – dinh thự cuối cùng của vua cha tại Slaket, bên kia sông đối diện Phnom Penh. Trấn Tây được chia thành nhiều trung tâm khu vực:Kampong Thom (Hải Đông, 海東) ở phía đông Biển Hồ, giápSiem ReapPursat do Xiêm kiểm soát; vàPursat (Hải Tây, 海西) ở tây nam Biển Hồ, giápBattambang của Xiêm.

Trương Minh Giảng đưa 5.000 lính Đại Nam đến Phnom Penh để huấn luyện.[11] Ông trở thành người nắm quyền cai trị trên thực tế. Quan lại bản địa Campuchia hàng ngày phải đến chầu lạy Trương Minh Giảng. Minh Mạng chủ trương truyền bá tư tưởng chính trị và văn hóa của Đại Nam lên đất Campuchia. Trương Minh Giảng còn cưỡng chế đưa mô hình quan liêu Hán – Việt vào Campuchia,[18] thay thế tầng lớp quý tộc Khmer dù vốn vẫn tồn tại nhưng mất quyền lực hành chính. Bị áp đặt chính sách đồng hóa, người Khmer phải theo phong tục Việt như ngôn ngữ, lễ nghi, y phục, kiểu tóc,[6] trong đó có việc đội khăn vấn. Họ còn bị cưỡng bức đi lao dịch, xây dựng đường sá, công trình, và làm đồn điền nông nghiệp để tăng năng suất kinh tế, khiến cho đời sống càng thêm khổ cực.[14]

Năm 1837, Oknha Dechu Ream,[19] quan trấn thủ Kampong Svay, nổi lên chống lại sự cai trị của nhà Nguyễn nhưng bị bắt và xử tử. Năm sau, tháng 2 năm 1838, Snang Ey,[19] một viên quan Khmer phục vụ dưới trướng người Việt, giết phái viên người Việt tại Kampong Thom (Hải Đông) rồi nổi dậy, tập hợp 1.000[17] người Khmer rồi tàn sát người Việt tại vùng Kampong Svay – Kampong Thom.[14] Trương Minh Giảng cử Đoàn Văn Phú và Chauvea Tolaha Long – Tể tướng thân Việt của Campuchia – từ Phnom Penh đi đánh Snang Ey, giao tranh tạiSteung TrangKampong Siem. Sau khoảng một tháng, cuộc nổi dậy bị dẹp yên. Snang Ey trốn về phía bắc, vượt sông Tonle Repou sang nương nhờ Vương quốcChampasak do Xiêm kiểm soát. Trương Minh Giảng sau đó tiến hành thanh trừng khốc liệt quan lại Campuchia ở Kampong Svay. Nhiều quan lại bị xử tử hoặc giam cầm.[14] Trong các năm 1837–1838 cũng có khởi nghĩa Khmer chống Đại Nam tạiKampong Saom (Khai Biên, nay là Sihanoukville).

Sự chuẩn bị của Xiêm

[sửa |sửa mã nguồn]
Pháo đài Phairiphinat (ป้อมไพรีพินาศ) doKham Bunnag xây năm 1834 tại cửa sôngChanthaburi để phòng thủ trước nguy cơ bị Đại Nam tấn công.

Khi quân Xiêm rút khỏi Campuchia đầu năm 1834, họ lo ngại người Việt sẽ mở một cuộc phản công toàn diện. Vua Nangklao hạ lệnh đóng 80 chiến thuyền kiểu Việt, trong đó 40 chiếc đặt tại Bangkok và 40 chiếc bố trí tại các thị trấn ven biển.[1] Nhà vua cũng cho tu sửa thành Chachoengsao và xây một pháo đài mới gọi là Khong Kraphan (ป้อมคงกระพัน)[1] tạiPhra Samut Chedi (tỉnhSamut Prakan) năm 1834. Nangklao còn cửChao Phraya Phrakhlang Dit Bunnag tăng cường phòng thủ Chanthaburi ở vùng duyên hải phía Đông Xiêm. Ông quyết định dời thành Chanthaburi từ vị trí ven sông lên cao 5 km và xây pháo đài Noen Wong (ป้อมเนินวง).[20] Con trai ông,Chamuen Rachamat Kham Bunnag, được giao nhiệm vụ xây thêm hai pháo đài ở hai bờ cửa sông Chanthaburi. Một người con khác của Phrakhlang,Chamuen Waiworanat Chuang Bunnag, từng du học kỹ thuật đóng tàu phương Tây, đã đóng con tàu buồm ba cột buồm đầu tiên do người Xiêm chế tạo mang tên Ariel tại Chanthaburi năm 1835,[21] trọng tải 300 tấn, được vua Xiên đặt tên là Klaew Klang Samut (แกล้วกลางสมุทร). Chuang Bunnag tiếp tục đóng một tàu buồm lớn 1.400 tấn tên Conqueror (Rabinbuakaew, ระบิลบัวแก้ว) năm 1836. Tại Bangkok, Hoàng đệKromma Khun Itsaret Rangsan, em cùng cha khác mẹ của vua Nangklao, cũng hứng thú đóng tàu theo kiểu Tây và cho chế tạo nhiều tàu như Fairy (Phuttha-amnat, พุทธอำนาจ, loại barque), Sir Walter Scott (Ratcharit, ราชฤทธิ์, barque) và Lion (Udomdet, อุดมเดช, brig), với sự trợ giúp của Chuang Bunnag, người đã đóng thêm tàu Victory (Witthayakhom, วิทยาคม). Các thủy thủ người Anh được thuê về làm thuyền trưởng.

Sau cái chết của Ang Chan năm 1835 và việc Đại Nam nắm quyền ở Campuchia, một nhóm quý tộc Khmer bí mật gửi thư sang Bangkok, kêu gọi đưa các Hoàng đệ Ang Em và Ang Duong trở lại.[22] Tuy nhiên, Xiêm chưa hồi phục sau thất bại năm 1834 nên chưa thể mở chiến dịch mới ngay được. Việc Xiêm tiêu diệtVương quốc Vientiane sau cuộckhởi nghĩa của Anouvong đã cho phép họ kiểm soát nguồn nhân lực người Lào và Khmer miền Bắc ởIsan. Một lượng lớn dân Lào từ bờ đông sông Mê Kông bị cưỡng bức dời sang bờ tây, làm tăng dân sốcao nguyên Khorat. Tháng 1 năm 1837, vua Nangklao ra lệnh tổng điều tra dân số vùng Đông Bắc để huy động binh lực cho chiến dịch tương lai chống Campuchia và Đại Nam.[1] Vấn đề thiếu lương thảo và tiếp tế vốn là nhược điểm khi quân Xiêm tác chiến xa căn cứ. Nhà vua choPhraya Ratchasuphawadi Ng To thiết lập tuyến tiếp tế tạiPrachinburiKabin Buri trên đường sang Campuchia.[1]

Xiêm cũng củng cố Battambang thành căn cứ chính trị của mình.[22] Khi Bodindecha đến Battambang tháng 2 năm 1837, ông thấy thành cũ đã hư hại nên đề nghị dời đô Battambang từ Baset sang vị trí hiện nay bên sôngSangkae, xây thành mới tại đó.[22] Khoảng 2.000 dân Xiêm–Lào từNakhon Ratchasima, 6.405 dân Lào từ Đông Bắc Xiêm và 1.474 dân Xiêm–Lào từNakhon Nayok,PrachantakhamKabin Buri được bắt đi xây dựng thành Battambang mới. Bodindecha tiếp tục khảo sát nhân lực, báo cáo có tới 80.000[1] đàn ông Lào và Khmer miền Bắc sẵn sàng nhập ngũ. Tháng 2 năm 1839, Phraya Ratchasuphawadi được cử đến tăng cường phòng thủ thị trấnSiem Reap do Xiêm kiểm soát.[1]

Sự quy thuận của Ang Em về phía Đại Nam

[sửa |sửa mã nguồn]

Phraya Aphaiphubet Chet - Tổng trấn Battambang thuộc Xiêm, qua đời vào năm 1834. Vua Nangklao liền bổ nhiệm hoàng tử Campuchia Ang Em lên thay chức làm tổng trấn Battambang để lôi kéo người Khmer về phía mình. Phraya Palat Ros được cử làm phó tổng trấn dưới quyền Ang Em; còn Ang Duong cũng được bổ nhiệm làm Tổng trấnMongkolborey[11] – một thị trấn khác ở tây bắc Campuchia.Trương Minh Giảng, Tướng quân Trấn Tây của Đại Nam, bí mật gửi thư cho Ang Em ở Battambang, thúc giục ông quy thuận về phía Đại Nam và hứa sẽ lập ông làm vua Campuchia nếu thuận theo người Việt.[11] Cùng lúc đó, Chauvea Tolaha Long – tể tướng Campuchia – cũng gửi thư riêng cho Ang Duong ở Mongkolborey, kêu gọi ông từ bỏ Xiêm để trở về với Campuchia. Những tiếp xúc bí mật này khiến hai anh em hoàng tộc Ang Em và Ang Duong mâu thuẫn lẫn nhau. Phraya Palat Ros, phó tổng trấn Battambang, đứng về phía Ang Em; còn Phra Phithakbodin Som, con trai của Chet, ủng hộ Ang Duong.

Khi Chao Phraya Bodindecha hoàn tất việc dựng thành Battambang mới và tổng điều tra dân số Đông Bắc Xiêm, ông trở về Bangkok năm 1838, khiến Battambang rơi vào khủng hoảng chính trị. Tháng 11 năm 1838, Ang Duong và Phra Phithakbodin Som âm mưu đảo chính đoạt quyền ở Battambang nhưng Phraya Palat Ros cùng phe cánh của Ang Em đã mật báo về Bangkok; hậu quả là Ang Duong bị bắt giải về Bangkok, giam vào ngục tối, sau đó cho quản thúc tại gia.[11]

Một năm sau khi mưu đồ của Ang Duong thất bại thì đến lượt Ang Em. Ang Em vốn là ứng viên thân Xiêm hàng đầu cho ngôi vua Campuchia suốt khoảng hai thập niên, nhưng thất vọng trước việc Xiêm không thực sự đưa ông lên ngôi,[11] chỉ để ông làm tổng trấn Battambang. Ngày 24 tháng 12 năm 1839, Ang Em phát động binh biến ở Battambang, bắt giữ Phraya Palat Ros và các quan lại Campuchia thân Xiêm khác. Đêm đó, Ang Em đưa đi khoảng một nửa dân Battambang cùng các quan bị bắt – ước chừng 6.000 đến 8.000 người – xuống hàng trăm thuyền bè vượt Biển Hồ để sang đầu thú với Đại Nam ở Pursat vào tháng 1 năm 1840. Tuy nhiên, Hoàng đếMinh Mạng không có ý khôi phụcchế độ quân chủ Campuchia vì mục tiêu tối hậu của ông là sáp nhập Campuchia về chính trị và văn hóa vào Đại Nam.[14] Minh Mạng lệnh cho Trương Minh Giảng bắt Ang Em và Phraya Palat Ros, giải thẳng từ Phnom Penh vềHuế; Phraya Palat Ros bị cho là đã bị xử tử, còn Ang Em bị giam cầm. Dân Battambang do Ang Em đưa theo được an trí tại các thị trấn gần Pursat nhưKrakor, Krang, Khlong,BaribourRolea B'ier; một số khác bị dời đi xa hơn đến Sài Gòn hoặcVĩnh Long ở Nam Kỳ. Mẹ của Ang Em và Ang Duong là Neak Neang Ros cùng con trai của Ang Em là Ang Phim thì bị quản thúc tại Sài Gòn.

Ở Bangkok, Chao Phraya Bodindecha nghe tin biến cố nghiêm trọng này liền khởi hành gấp vào tháng 1 năm 1840, đem quân Xiêm tiến về Battambang. Ông nhận thấy Battambang đã kiệt quệ cả về lương thực lẫn nhân lực; vùng đệm giữa Campuchia vàTrung Xiêm[9] vì thế suy yếu, dễ bị Campuchia và Đại Nam tấn công. Dù có 4.300 người Khmer miền Bắc từKhukhan,Surin,SangkhaSisaket kéo tới, tình hình cũng không cải thiện vì Bodindecha không đủ lương thực để nuôi quân tại Battambang; do đó ông phải điều quân Khmer miền Bắc và quân Xiêm tỏa ra trấn giữ Siem Reap,Moung RuesseiKampong Preah, trong khi ông tập trung bổ sung nguồn lực cho Battambang. Bodindecha bổ nhiệm Phra Phithakbodin Som làm quyền tổng trấn Battambang, còn Phra Narinyotha Nong làm quyền phó tổng trấn.

Trong khi đó, Trương Minh Giảng thúc giục các đại thần Campuchia là Chauvea Tolaha Long, Samdech Chauponhea Hu và Oknha Kralahom đem quân Campuchia đánh chiếm lại Battambang khi nơi này đang suy yếu. Tuy nhiên, các đại thần Campuchia từ chối, cho rằng sau vụ Ang Em quy thuận, quân Xiêm đã tăng cảnh giới, cơ hội giành chiến thắng rất thấp.[11] Bản thân Trương Minh Giảng cũng không mặn mà đưa quân Đại Nam đánh Battambang vì e ngại châm ngòi cho một cuộc chiến Xiêm – Việt nữa.

Khởi nghĩa Campuchia chống Đại Nam

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Cuộc nổi dậy ở Campuchia (1840–1841)

Đầu năm 1840, Hoàng đế Minh Mạng siết chặt việc kiểm soát Campuchia tức Trấn Tây thành. Ông ra lệnh tổng điều tra dân số, báo cáo ghi nhận tới 40.000 nam đinh có thể huy động tại Campuchia.[11] Tuy nhiên, Minh Mạng sớm phát hiện người Campuchia khai thiếu khoảng 15.000 người,[17] nên đã trừng phạt ba đại thần đứng đầu Campuchia là Chauvea Tolaha Long, Samdech Chauponhea Hu và Oknha Kralahom bằng cách phát lưu họ ramiền bắc Đại Nam với tội bất tuân mệnh lệnh và yếu kém. Minh Mạng tiếp tục bước đi "hội nhập" sâu hơn bằng việc hạ thấp địa vị của vương quyền Campuchia,[11] giáng Ang Mey – nữ quân chủ Campuchia – xuống tước "Mỹ Lâm quận chúa" vào tháng 7 năm 1840. Tháng 8 năm 1840, Trương Minh Giảng phát hiện công chúa trưởng Ang Pen, người từng bị loại khỏi danh sách kế vị do quan hệ mật thiết với Xiêm, đã bí mật liên lạc với mẹ là Neak Neang Tep và cậu là Preah Angkev Ma (đều là con của Chaophraya Aphaiphubet Baen) ở Battambang. Preah Angkev Ma gửi thư khuyên Ang Pen tìm cách trốn về đoàn tụ với mẹ tại Battambang.

Minh Mạng bổ nhiệmLê Văn Đức làm Khâm sai đại thần (欽差大臣) sang Trấn Tây vào tháng 7 năm 1840. Khi Lê Văn Đức đến Phnom Penh vào tháng 8, ông và Trương Minh Giảng tiến hành các cải cách quy mô, thực chất xóa bỏ vai trò và quyền lực của quan lại Campuchia. Ấn tín hành chính của Campuchia bị tịch thu và thay bằng ấn của Đại Nam. Ngày 24 tháng 8 năm 1840,[23] Trương Minh Giảng mở yến thiết đãi Lê Văn Đức tại dinh trong thành Trấn Tây; các Oknha Campuchia và bốn công chúa Khmer đều bị buộc dự. Tại buổi tiệc, Trương Minh Giảng tuyên bố gây chấn động rằng công chúa thân Xiêm Ang Pen đang mưu trốn sang Battambang; vì thế Ang Pen sẽ bị bắt, còn ba công chúa còn lại – Ang Mey, Ang Peou và Ang Sngoun – sẽ bị giải về Sài Gòn. Khi ba công chúa cùngthánh kiếm Preah Khan Reach và các bảo vật hoàng gia[11] bị áp giải xuống Sài Gòn, Ang Pen bị kết tội phản loạn và được cho là đã bị bí mật xử tử bằng cách dìm xuống sông Mê Kông.[15] Những diễn biến này khiến người Khmer kinh hãi và phẫn nộ; sự vắng bóng củavương quyền Campuchia làm suy giảm tính chính danh của chínhgiới quý tộc Khmer.[24]

Sau 5 năm bị người Việt cai trị dưới danh nghĩa Trấn Tây thành (từ 1835), người Khmer vốn bức xúc vì lao dịch cưỡng bức, đồng hóa văn hóa và cách đối xử với hoàng tộc – tất cả đều làm xói mòn bản sắc và văn hóa Khmer[24] – rốt cuộc đã nổi dậy chống lại. Đầu tháng 9 năm 1840, Oknha Outey Thireach Hing – Tổng trấnSamraong Tong – và Oknha Vongsa Anchit Mey – Tổng trấnBati – khởi binh ở phía tây Phnom Penh, châm ngòi phong trào chống Đại Nam khắp vương quốc. Campuchia chìm vào hỗn loạn; nhiều thủ lĩnh địa phương giết người Việt trong vùng và tự lập phe cánh riêng, tiêu biểu gồm có:[23]

  • Oknha Outey Thireach Hing (Samraong Tong) và Oknha Vongsa Anchit Mey (Bati) khống chế khu vực phía tây Phnom Penh và hành hình người Việt tại đây.
  • Oknha Chet ởBaray, được Xiêm hậu thuẫn, kêu gọi toàn vùng Kampong Svay và Baray nổi dậy, giết người Việt với sự phối hợp chặt chẽ từ phía Xiêm.
  • Oknha Reachea Dechea Nong tự xưngChakrey (Thượng thư bộ Binh),[19] liên kết với Oknha Thommeadecho Meas – Tổng trấn Ba Phnum – lập căn cứ ởKien Svay, kiểm soát và hành hình người Việt ở toàn bộ khu vực phía đông Phnom Penh.

Oknha Sena Anchit Mau – Tổng trấn Kampot – chiếm đồn Việt ở Kampong Bay và giết người Việt trong các thị trấn. Oknha Mau còn đưa quân Khmer đánh thẳng Hà Tiên vào tháng 10 năm 1840, gây thương vong cho quân Việt.[25] Tuy nhiên, quân Đại Nam cuối cùng tái chiếm được Kampot, đẩy Oknha Mau ra khỏi địa bàn.

Cũng trong tháng 9 năm 1840, Oknha Surkealok Muk – Tổng trấn Pursat (Hải Tây) – bỏ về với Chao Phraya Bodindecha ở Battambang, cầu viện quân Xiêm kéo vào để chấm dứt sự cai trị của Đại Nam.[1] Từ Phnom Penh,Trương Minh Giảng điều quân Campuchia – Đại Nam đi dẹp các thủ lĩnh Khmer nổi dậy ở cả phía đông lẫn phía tây thủ phủ nhưng đều không thu được hiệu quả. Khi nghe tin cả nước Campuchia đồng loạt nổi dậy chống Đại Nam, Hoàng đế Minh Mạng "giận đến dựng tóc gáy".[14] Trước làn sóng hành hình người Việt lan rộng, quan lại và dân di cư Việt ở Campuchia rút về các trung tâm hành chính như Phnom Penh, Pursat và Sambok. Đầu tháng 11 năm 1840,[23] các Oknha miền tây nam Campuchia gồm Oknha Hing (Samraong Tong), Oknha Mey (Bati) và Oknha Ton (Prey Kabbas) đưa quân áp sát ngoại vi Phnom Penh, bao vây thành Trấn Tây.

Quân Việt tại Trấn Tây thiếu hụt nhân lực, chỉ trông cậy vào binh lính Đại Nam và một số ít người Khmer trung thành. Trương Minh Giảng xin Hoàng đế Minh Mạng cử viện quân đến để đàn áp. Minh Mạng lệnh động viên 10.000[11] nam đinh Nam Kỳ từ các tỉnhAn Giang,Vĩnh Long,Định Tường) vàGia Định tiến sang Campuchia.[26] Do Oknha Surkealok Muk – Tổng trấn Khmer ở Pursat – đã bỏ sang với người Xiêm tại Battambang, Trương Minh Giảng bèn cửĐề đốcVõ Đức Trung đem quân từ Phnom Penh chiếm lại Pursat.[26] Dù quân Khmer bao vây Phnom Penh, vòng vây lỏng lẻo nên quân Đại Nam vẫn di chuyển được giữa Phnom Penh và các vùng khác của Campuchia.

Xiêm tấn công Campuchia: Tháng 11, 1840– Tháng 1 1841

[sửa |sửa mã nguồn]
Cuộc xâm lược Campuchia của Xiêm (1840–1841)
Một phần của Chiến tranh Xiem–Việt
Thời gian3 tháng 11 năm 1840[1] – 14 tháng 1 năm 1841[27]
Địa điểm
Tham chiến
Vương quốc XiêmĐại Nam
Chỉ huy và lãnh đạo
Mặt trận Pursat
Chao Phraya Bodindecha
Chao Phraya Nakhon Ratchasima Thong-in
Phra Phirenthorathep Kham
Phra Phromborirak Kaew
Mặt trận Kampong Thom
Phraya Ratchanikun Suea
Phraya Aphai Songkhram
Luang Raksathep
Mặt trận Kampong Thom
Trương Minh Giảng
Lê Văn Đức
Bùi Công Huyên
Võ Viết Tuấn 
Đoàn Văn Sách
Nguyễn Công Nhàn
Mặt trận Pursat
Võ Đức Trung
Nguyễn Song Thành
Tôn Thất Quý
Thành phần tham chiến
Quân hỗn hợp Xiêm – Khmer từ miền Bắc và LàoQuân đội Đại Nam
Quân Trấn Tây
Các doanh Nam Kỳ
Lực lượng
Quân đa tộc Xiêm–Khmer Bắc–Lào
21.753 quân[1]
Trấn Tây thành (ước tính của Xiêm)
20.000 quân[1]
Doanh Gia Định
1.300 quân
Doanh Bình Định
3.100 quân

Các mũi tấn công của Xiêm vào Pursat và Kampong Thom

[sửa |sửa mã nguồn]

Đầu tháng 9 năm 1840, Oknha Chet – một vị quan Khmer ởBaray – và Oknha Decho Ros – Tổng trấnKampong Svay – được tổng chỉ huy Xiêm làChaophraya BodindechaBattambang hậu thuẫn, đã kêu gọi ngườiKhmer tại khu vực Kampong Svay – Kampong Thom (Hải Đông), phía đôngBiển Hồ, nổi dậy chống cai trị của người Việt và hành hình dân Việt tại các xứ Kampong Svay, Baray,Cheung Prey,Kampong Siem,Steung Trang. Quân Việt bị dồn vềKampong Thom, tổng hành dinh của Việt cách Kampong Svay khoảng 15 km về đông nam trên sôngSteung Saen. Oknha Chet và Oknha Decho đem quân Khmer tấn công Kampong Thom. Trần Văn Thông –Tuyên phủ của Kampong Thom – vàLãnh binh Hoàng Phước Lợi phòng thủ và đẩy lui quân Khmer. Khi người Khmer rút lui, tướng Hoàng Phước Lợi truy kích thì bị Oknha Chet phục kích, tử trận.[26]

Cuộc nổi dậy của Oknha Chet và Oknha Decho Ros tại Kampong Svay tạo điều kiện cho quân Xiêm tiến sâu vào khu vực. Khi các Oknha miền Nam Campuchia vây thành Trấn Tây ởPhnom Penh đầu tháng 11 năm 1840, Chaophraya Bodindecha nắm thời cơ mở các đợt tấn công vào Campuchia nhằm khôi phục ảnh hưởng của Xiêm, sáu năm sau khi Xiêm rút lui khỏi chiến dịch thất bại năm 1834. Ngày 3 tháng 11 năm 1840, ông cử Phraya Ratchanikun dẫn 13.000 quânLàoKhmer miền Bắc từSiemreap men theo bờ đông bắc Biển Hồ tiến vào khu Kampong Svay – Kampong Thom để hỗ trợ các Oknha Khmer đang nổi dậy.[1] Tuy nhiên, tuyến tiến quân của Xiêm bị hai thành do Việt giữ chặn lại tạiStoungChikreang.

Ngày 10 tháng 11 năm 1840, tổng chỉ huy quân Xiêm, Chaophraya Bodindecha và Phra Narinyotha Nong – Phó tổng trấn Battambang – gửi thư cho các Oknha miền Nam Campuchia, thúc giục họ tấn công người Việt. Động thái này khiến các Oknha tin rằng họ sẽ nhận được Xiêm hậu thuẫn cho phong trào chống Việt. Ngày 17 tháng 11, các Oknha viết 18 bức thư cho Bodindecha, yêu cầu người Xiêm thả Hoàng tử thân XiêmAng Duong đang bị quản thúc tạiBangkok sau mưu nổi dậy thất bại năm 1838, để làm lãnh tụ của họ.[1] Oknha Outey Thireach Hing ởSamraong Tong tự xưng là thần dân của Xiêm quốc,[23] than phiền rằng phong trào của ông thiếu người cầm đầu thống nhất. Oknha Mau ởKampot phàn nàn thiếu vũ khí để chống các đợt tấn công của Việt từ Hà Tiên, Oknha Vongsa Anchit Mey ởBati bày tỏ mong muốn Campuchia trở lại thời vuaAng Eng và đại thần nhiếp chính Tolaha Pok thập niên 1790, khi Xiêm chi phối Campuchia. Oknha Surkealok Muk của Pursat và Oknha Vibolreach Long được cử làm đại diện mang 18 bức thư thư đến chỗ Bodindecha.[19]

Bản đồ các đường tiến quân trong các đợt tấn công của Xiêm giai đoạn 1840–1842. Đỏ: đường Xiêm. Vàng: Đại Nam và Campuchia.

Chaophraya Bodindecha – người giữ chứccSamuha Nayok (Thừa tướng) nước Xiêm cùng em rể là Chao Phraya Nakhon Ratchasima Thong-in, Tổng trấnNakhon Ratchasima, đang đóng ở Battambang để tập hợp người Xiêm, Lào và Khmer Bắc xâm nhập Campuchia. Ngày 16 tháng 11 năm 1840, Bodindecha sai Phra Phirenthorathep Kham – con trai Tổng trấn Nakhon Ratchasima – dẫn 2.788 quân Lào[1] đánh xuống phía đông nhằm vàoPursat (Hải Tây), nơi tướng Việt Võ Đức Trung trấn giữ. Ngày 20 tháng 11, ông lại phái con trai mình là Phra Phromborirak Kaew cùng em rể – Tổng trấn Nakhon Ratchasima – đem 2.445 quân Lào và Xiêm gốc Nakhon Ratchasima đánh Pursat.[1] Cuối cùng ngày 21 tháng 11 năm 1840, Bodindecha tự dẫn đại quân 3.520 người tiến về Pursat, tại đây ông nhận được 18 bức thư của các Oknha xin thả Ang Duong.[1] Những thư này khiến Bodindecha yên tâm rằng người Campuchia sở tại ủng hộ bước tiến của quân Xiêm.

Mặt trận Kampong Thom: Chikreang và Stoung

[sửa |sửa mã nguồn]

Từ Siemreap, lực lượng Lào–Xiêm do Phraya Ratchanikun chỉ huy buộc phải vượt qua hai đồn Việt tại Chikreang (Chi Trinh) rồi đến Stoung (Sa Tôn) để vào Kampong Svay và Kampong Thom. Stoung doPhó lãnh binhĐoàn Văn Sách trấn giữ,[26] ông cử Nguyễn Công Nhàn[26] ra giữ Chikreang – đồn tiền tiêu chặn hướng tiến của quân Xiêm từ Siemreap. Tháng 11 năm 1840, Phraya Ratchanikun tấn công Chikreang. Quân Xiêm dựng rào lũy bao quanh đồn và đắp bốn ụ đất cao hơn tường thành, đặt pháo trên đỉnh các ụ bắn dồn dập vào trong thị trấn Chikreang, gây thương vong cho quân Việt. Quân Việt phải đào giao thông hào tránh đạn chùm.[26] Đồng thời, quân Xiêm dựng hai đồn hai bên bờ sông Chikreang và đóng cọc gỗ ngang sông để chặn đường thủy, ngăn quân Việt thoát ra hoặc nhận viện binh. Khi Nguyễn Công Nhàn cùng 200 quân ở Chikreang lâm nguy, Đoàn Văn Sách đem 370 quân từ Stoung sang cứu nhưng bị vật cản trên sông chặn lại. Ông chia quân đánh đồng thời hai đồn của Xiêm, chặt bỏ hàng cọc, mở đường; quân Xiêm rút lui khi viện binh của Đoàn Văn Sách tới nơi.[26]

Dù tạm đẩy lùi được đợt công kích,Đoàn Văn SáchNguyễn Công Nhàn nhận thấy không thể giữ Chikreang lâu, nên bỏ Chikreang cho quân Xiêm và rút về Stoung. Đoàn Văn Sách giao cho Nguyễn Công Nhàn 1.000 quân giữ Stoung, còn mình về Kampong Thom. Phraya Ratchanikun chiếm Chikreang. Hoàng đế Minh Mạng khen ngợi Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn về trận thắng vừa rồi, đồng thời khiển trách các khâm sai ở Phnom Penh vì quá thụ động.[26] Đầu tháng 12 năm 1840, Trương Minh Giảng điềuVõ Viết Tuấn đem 1.300 quân Nam Kỳ từ Sài Gòn lên trấn Stoung. Tại Stoung, Võ Viết Tuấn gặp hai đồn Xiêm dày đặc pháo trên tường; hỏa lực pháo súng Xiêm “như mưa”[26] khiến Võ Viết Tuấn tử trận và quân Việt thiệt hại nặng nề.

Cái chết của Võ Viết Tuấn khiến Trương Minh Giảng coi mũi tiến công của Xiêm tại Kampong Thom là mối đe dọa nghiêm trọng. Ông quyết định tập trung đẩy lui quân Xiêm khỏi Stoung. Tháng 12 năm 1840, 3.100 quân từBình Định đến Phnom Penh tăng viện cho Trương Minh Giảng.[26] Ông bố trí lực lượng như sau:

  • Trương Minh Giảng – Tướng quân Trấn Tây – và phó tướng Lê Văn Đức đem 2.600 quân làm tiên phong đánh đuổi quân Xiêm tại Stoung;
  • Bùi Công Huyên –Tổng đốc Long Tường (hai tỉnhVĩnh LongĐịnh Tường) – đem 1.200 quân làm hậu quân;
  • 1.300 quân để lại bảo vệ thành Trấn Tây ở Phnom Penh doDoãn Uẩn chỉ huy.

Khi Trương Minh Giảng, Lê Văn Đức và Bùi Công Huyên đến bờ Biển Hồ cùng quân đội, họ được tin quân Xiêm cũng đang đánh Pursat. Trương Minh Giảng quyết định tạm để mặt trận Pursat cho Võ Đức Trung trấn giữ vì Kampong Thom cấp bách hơn – quyết định này bị Minh Mạng phê phán, cho rằng nên phân lực cứu cả hai mặt trận.[26] Quyết định không đoái hoài Pursat về sau dẫn đến hệ quả bất lợi cho Trương Minh Giảng: Võ Đức Trung đầu hàng Bodindecha, cuối cùng khiến quân Đại Nam rút khỏi Campuchia vào tháng 11 năm 1841.

Tháng 12 năm 1840, từ Chikreang, Phraya Ratchanikun tiếp tục đánh Stoung, nơi Nguyễn Công Nhàn trấn thủ. Quân Xiêm lặp lại chiến thuật đắp ụ đất cao đặt pháo bắn vào trong thành. Đoàn Văn Sách từ Kampong Thom kéo quân cứu Stoung thì bị quân Xiêm nhử vào rừng và đánh tập hậu tứ phía; ông bị thương, còn người em trai thì tử trận.[26] Nguyễn Công Nhàn cuối cùng phải thân hành xông ra đẩy lui đợt công kích của Xiêm, song phía Việt gặp thương vong nặng.

Cuối tháng 12 năm 1840, ba vị khâm sai – Trương Minh Giảng, Lê Văn Đức và Bùi Công Huyên – cùng quân đội tới Stoung, thấy quân Xiêm hạ trại gặt lúa ngoài thị trấn. Trương Minh Giảng chia quân ra, mỗi người 1.200 quân. Ông lại sai Nguyễn Công Nhàn đem 700 quân làm tiên phong đánh các doanh trại và đồn của Xiêm. Nguyễn Công Nhàn đẩy lùi quân Xiêm khỏi Stoung, buộc họ rút về Chikreang. Trương Minh Giảng thừa thắng tiến đánh Chikreang. Lúc này, tinh thần của lính dân tộc thiểu số Lào và Khmer Bắc trong quân Xiêm sa sút; theo sử Thái, khi quân Việt kéo đến Chikreang, các toán Lào và Khmer Bắc "tự ý giải tán", không giao chiến.[1] Phraya Ratchanikun cố gắng trấn áp nhưng bất thành. Đến tháng 1 năm 1841, Trương Minh Giảng và quân Đại Nam đã giành lại Stoung, Chikreang và khu vực Kampong Thom, buộc Ratchanikun và quân Xiêm rút vềPhnom Srok thuộc vùng Tây Bắc Campuchia do Xiêm kiểm soát. Trương Minh Giảng dự định vượt Biển Hồ trong thế thắng để xử lý mặt trận Pursat; nhưng lúc ấy mưu đồ của Bodindecha đã đi trước một bước.

Mặt trận Pursat: Hiệp ước hòa bình tại Pursat

[sửa |sửa mã nguồn]

Vào giữa tháng 11 năm 1840, Chaophraya Bodindecha, Chaophraya Nakhon Ratchasima Thong-in, cùng các con là Phra Phromborirak Kaew và Phra Phirenthorathep Kham, chỉ huy 8.753 quân Lào–Xiêm tấn công Pursat hay Hải Tây, nơiĐề Đốc Võ Đức Trung trấn thủ. Trong mùa mưa, quân Xiêm đóng trại ở ngoại ô Pursat. Cuối tháng 11, Bodindecha cho 4.000 quân của đạo quân mình tấn công vào thành.[1] Võ Đức Trung xuất quân giao chiến. Quân Xiêm chiếm ưu thế, quân Việt rút vào trong thành cố thủ.

Đến cuối mùa mưa đầu mùa khô, tức tháng 12 năm 1840, Chaophraya Bodindecha và đồng sự là Chaophraya Nakhon Ratchasima ra lệnh cho quân Lào–Xiêm dựng rào lũy bao vây Pursat, nối các đồn bằng hàng rào đặt pháo, tiến hành vây hãm Pursat. Hệ thống đồn lũy và hàng rào của quân Xiêm cách tường thành Pursat khoảng 440 đến 480 mét,[1] bao kín thành. Quân Xiêm còn đóng cọc chặn sôngPursat River, ngăn cản quân Việt mở đường thoát ra hoặc viện binh vào. Trong thành Pursat, cóLãnh binh là Võ Đức Trung,Tuyên phủ là Nguyễn Song Thành vàPhóLãnh binh phó chỉ huy là Tôn Thất Quý.[17][26] Phía Việt chủ trương phòng thủ, dựa vào thành lũy Pursat để chống lại lực lượng áp đảo của quân Xiêm.

Bodindecha và Nakhon Ratchasima – hai tướng Xiêm – cho rằng ngoại giao có thể là con đường khuất phục Pursat. Giữa tháng 12, quân Xiêm treo một bức thư lên cổng thành Pursat, đề nghị ký kết hòa ước. Võ Đức Trung và các quan trong thành trả lời rằng họ không có thẩm quyền ký kết bất kỳ hiệp ước nào nếu không có sự chấp thuận của Hoàng đế Đại Nam.[26] Trong nỗ lực ép người Việt phải thuận theo bằng một bản hòa ước, Bodindecha gia tăng công kích Pursat. Quân Xiêm đắp các ụ đất cao ngoài bốn phía tường thành Pursat, cao hơn tường chừng 2,5 mét,[1] đặt pháo bắn thẳng vào nội thành. Hỏa lực pháo của Xiêm gây tàn phá nặng nề, đốt cháy nhà cửa và làm 50 người chết trong thành Pursat.[1] Võ Đức Trung và quân Việt cố thủ suốt ba ngày.

Cuối tháng 12 năm 1840, Chaophraya Bodindecha càng siết chặt vòng vây Pursat. Ông dựng thêm một vòng đồn lũy và hàng rào ở cự ly còn gần hơn, chỉ chừng 1,5 mét cách tường thành, nhằm bóp nghẹt quân Việt trong Pursat.[1] Đúng lúc này, Oknha Outey Thireach Hing ởSamraong Tong – một Oknha nổi dậy đang vây thành Trấn Tây – bắt được 8 người Việt từ Phnom Penh và gửi sang Bodindecha tại Pursat như một "lễ vật hữu hảo". Bodindecha thẩm vấn 8 người Việt này và biết được tin chấn động: Tướng quân Trấn Tây Trương Minh Giảng đã đánh bại và đánh bật lực lượng Xiêm dưới quyền Phraya Ratchanikun khỏi Stoung và Chikreang ở mặt trận Kampong Thom, và Trương Minh Giảng đang hướng về mặt trận Pursat để giải vây. Bodindecha và Nakhon Ratchasima lo rằng nếu đại quân Việt dưới quyền Trương Minh Giảng tới Pursat, quân Xiêm buộc phải rút lui và lại bại trận lần nữa.[1] Lương thực chỉ đủ nuôi quân Xiêm khoảng một tuần. Giải pháp duy nhất là buộc Võ Đức Trung ký hòa ước trước khi Trương Minh Giảng kéo tới.

Sau những đợt công kích dữ dội vào Pursat do người Việt giữ, Chaophraya Bodindecha sai Phra Narinyotha Nong viết thư cầu hòa và cho 8 tù binh Việt mang thư vào giao trực tiếp cho Võ Đức Trung trong thành. Võ Đức Trung, sau khoảng một tháng chống đỡ các đợt tấn công của Xiêm, nhận ra rằng cố thủ thêm chỉ khiến người Việt chết nhiều hơn.[26] Ông sai Tôn Thất Quý ra nói với Bodindecha rằng phía Việt ở Pursat sẵn sàng ký hòa ước, dù vẫn e đây là bẫy của Xiêm. Bodindecha dựng một ngôi nhà làm nơi thương thuyết. Hôm sau, ngày 28 tháng 12 năm 1840,[23] Võ Đức Trung và Nguyễn Song Thành ra gặp Bodindecha tại căn nhà ấy; hai quan Việt cúi lạy Bodindecha.[17][26] Bodindecha không nhận lối xưng thần như vậy mà mời họ ngồi đàm đạo thân mật như những người bằng hữu.

Bodindecha nói với Võ Đức Trung và Nguyễn Song Thành rằng Xiêm và Việt từng là hai nước hữu hảo. Thời Hoàng đếGia Long, Xiêm và Việt đã hứa bang giao hữu nghị vĩnh viễn và Xiêm chưa từng bội ước. Tuy nhiên, những hiểu lầm gần đây như các cuộc nổi dậy củaAnouvongLê Văn Khôi đã làm xấu điquan hệ Xiêm–Việt. Bodindecha đề nghị coi Campuchia như vùng đặt dưới quyền bá chủ chung để dung hòa, ngõ hầu hai bên trở lại hữu hảo thân thiện như xưa.[26] Hai ngày sau, vào 30 tháng 12 năm 1840,[23] các quan Việt ở Pursat – Võ Đức Trung, Nguyễn Song Thành và Tôn Thất Quý – đã ký một hòa ước với tướng Xiêm Bodindecha, dù không có sự phê chuẩn của Hoàng đếMinh Mạng. Nội dung hòa ước gồm:

  1. Người Việt ở Campuchia sẽ chấm dứt chiến sự với người Khmer và rút toàn bộ khỏi Campuchia vềChâu Đốc
  2. Phía Việt sẽ tâu để Hoàng đế Minh Mạng sai sứ bộ sangBangkok nối lại quan hệ hữu hảo giữa Xiêm và Việt.

Hậu quả của Hiệp ước Pursat

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi đánh bật quân Xiêm khỏi Chikraeng và Stoung, Trương Minh Giảng định dẫn quân đến giải vây cho Pursat. Có tin báo rằng người Khmer đang tấn công Sambok (gọi là Sơn Tĩnh), trụ sở hành chính của người Việt ở vùng sôngMekong phía Đông Campuchia giápVương quốc Champasak, nênBùi Công Huyên đem một phần quân đi cứu Sambok.[26] Trương Minh Giảng và phó tướngLê Văn Đức dẫn đại quân Việt vượt hồ Tonle Sap, đổ bộ ở cảngKampong Luong phía Đông Pursat. Sau khi Hiệp ước Pursat được ký ngày 30 tháng 12 năm 1840, tổng chỉ huy tối cao của Xiêm là Chaophraya Bodindecha lập tức chuẩn bị cho việc di tản toàn bộ người Việt khỏi Pursat để đưa họ ra khỏi thành trong hòa bình. Cùng ngày đó, Trương Minh Giảng và Lê Văn Đức từ Kampong Luong tiến đánh Pursat. Khi họ đến gần, một người Xiêm ra báo tin rằng Võ Đức Trung – chỉ huy ở Pursat – đã ký hòa ước với Bodindecha. Trương Minh Giảng không tin và vẫn đánh trống thúc tiến tiếp. Sau đó, một người Việt ra nói điều tương tự. Trương Minh Giảng và Lê Văn Đức nhìn nhau kinh ngạc.[17] Lúc ấy đã chiều muộn, Trương Minh Giảng không biết xử trí thế nào trước diễn biến kỳ lạ này nên quyết định rút về Kampong Luong quan sát.

Ngày hôm sau, 31 tháng 12 năm 1840,[1] Chaophraya Bodindecha cho người Việt rời khỏi Pursat. Phó tổng trấn Battambang là Phra Narinyotha Nong dẫn 1.000 quân Khmer hộ tống Võ Đức Trung, Nguyễn Song Thành, Tôn Thất Quý cùng 1.500người Việt ở Pursat tớiKampong Chhnang, rồi thả họ ra. Bodindecha cũng viết một bức thư ngoại giao gửi cho "Tể tướngHuế", giao cho đoàn người Việt mang theo tới Kampong Chhnang. Võ Đức Trung gặp Trương Minh Giảng tại Kampong Luong. Trương Minh Giảng buộc tội Võ Đức Trung phản bội, tự ý ký hòa ước với địch mà không được phép. Võ Đức Trung biện bạch rằng kháng cự quân Xiêm vô ích và quyết định của ông đã cứu được sinh mạng của người dân vô tội. Trương Minh Giảng lập tức dâng tấu gấp về Huế, báo rằng người Khmer nổi loạn cầu viện Xiêm và Bodindecha đích thân tới đưa ra hòa ước.[26] Trương Minh Giảng tự bảo vệ mình rằng địch mạnh đông, giao tranh thêm chỉ tổn hại nhân mạng, và đề nghị quan sát xem Bodindecha có thật sự muốn hòa hiếu với Đại Nam hay không.[26]

Bodindecha đã kịp lấy được hòa ước từ Võ Đức Trung ngày 30 tháng 12, chỉ vài giờ trước khi Trương Minh Giảng đến nơi, nhờ vậy tránh một thất bại khác và đẩy vấn đề Campuchia sang mặt trận ngoại giao. Bodindecha biết rõ các quan trấn thủ Pursat không có đủ thẩm quyền ký hiệp ước, hòa ước này chỉ nhằm ngăn Trương Minh Giảng tấn công Pursat, hoặc Bodindecha gửi thêm thư cho "Tể tướng Huế"[1] để thuyết phục triều đình Nguyễn chấp nhận các điều khoản mà ông đạt được với ba vị quan người Việt.

Thư từ ngoại giao Xiêm–Việt

[sửa |sửa mã nguồn]

Trước đó, tháng 11 năm 1840, Minh Mạng bổ nhiệmPhạm Văn Điển làmKinh lược đại thần (經略大臣) đi sang Trấn Tây.[17] Ông phải mất gần hai tháng mới tới được thành Trấn Tây ở Phnom Penh vào đầu tháng 1 năm 1841. Theo sử Xiêm, Ong Ta Tian Kun (Phạm Văn Điển) và Ong Tian Kun (Trương Minh Giảng) bất hòa với nhau.[1] Sau khi quân Xiêm chiếm Pursat và Phạm Văn Điển đến nơi, Trương Minh Giảng không quay lại thành Trấn Tây ở Phnom Penh mà kéo quân đến đóng tại Kampong Thom.[1] Sự xuất hiện của Phạm Văn Điển làm thay đổi cán cân quyền lực trong hàng ngũ quan chức Đại Nam ở Campuchia. Phạm Văn Điển tiếp quản việc hành chính Trấn Tây, và Trương Minh Giảng không còn là quan cao nhất tại đây nữa.

Sau khi Hiệp ước Hòa bình Pursat được ký giữa Bodindecha và ba quan Việt ngày 30 tháng 12 năm 1840 và sau khi trục xuất người Việt khỏi Pursat hôm sau (31 tháng 12), quân Xiêm còn chiếm Pursat thêm hai tuần cho tới khi cạn lương. Ngày 14 tháng 1 năm 1841, Bodindecha, Nakhon Ratchasima Thong-in cùng quân Xiêm rút khỏi Pursat về Battambang, chấm dứt chiến dịch tấn công Campuchia của Xiêm từ tháng 11 năm 1840 đến tháng 1 năm 1841. Bodindecha giao cho Oknha Surkealok Muk – quan Khmer làm trấn thủ Pursat – 1.100 quân để giữ thành chống quân Việt.[27]

Thư của Bodindecha gửi "Tể tướng Huế" rốt cuộc lọt vào tay Phạm Văn Điển. Trong thư, Bodindecha tố rằng người Việt áp bức người Khmer, giam giữ hoàng tộc Khmer, nên Xiêm phải ra tay giải cứu. Ông cũng đưa ra các điều kiện từng thỏa thuận với ba quan Việt ở Pursat: Đại Nam phải rút khỏi Campuchia, lui vềChâu Đốc và cử sứ sangBangkok nối lại bang giao.[1]

Minh Mạng đọc thư xong vô cùng bất bình, nói quân Xiêm là bọn giả nhân giả nghĩa.[26] Sau một tai nạn ngã ngựa,[28] Hoàng đế Minh Mạng băng hà ngày 20 tháng 1 năm 1841. Chỉ dụ cuối cùng của ông về Campuchia là:[26]

  • Phạm Văn Điển phối hợp cùng Trương Minh Giảng chống mọi cuộc tấn công của Xiêm.
  • Quân Việt ở Hải Đông hayKampong Thom giao cho Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn chỉ huy.
  • Hành động phản trắc của Võ Đức Trung, Nguyễn Song Thành, Tôn Thất Quý khi tự ý ký hòa ước với Xiêm ởPursat là không thể dung thứ, nhưng vì tình thế bức bách, không được Trương Minh Giảng yểm trợ, nên tha tội cho họ, song phải bãi chức.

Sau khi Minh Mạng qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Miên Tông kế vị, tức Hoàng đếThiệu Trị.

Trương Minh Giảng và Phạm Văn Điển cùng viết thư hồi đáp[26] cho Bodindecha ở Battambang, nhưng theo sử Xiêm thì Ong Ta Tien Kun (Phạm Văn Điển) một mình viết thư ngày 11 tháng 2 năm 1841.[1] Nội dung thư của phía Đại Nam rất đanh thép, bảo rằng rằng người Xiêm quen thói giả dối, miệng vẫn tự xưng giữ lời hứa nhưng đã nhiều lần bội ước. nhiều lần xâm lấn, khiêu khích Campuchia và Đại Nam, trong khi Đại Nam chưa từng lấn một tấc nào đất Xiêm.[1] Nếu Xiêm muốn hòa hảo thì phải rút về Battambang rồi cử sứ giả sang Huế mà bàn nghị.[1][26] Thư này tới tay Bodindecha ở Battambang ngày 26 tháng 2 năm 1841. Trong thư, Phạm Văn Điển cũng nói rõ Võ Đức Trung, Nguyễn Song Thành, Tôn Thất Quý không đại diện triều đình Đại Nam nên hòa ước Bodindecha ký với họ là vô hiệu.

Phạm Văn Điển cửLê Quốc Hương mang thư sang Bodindecha, đến Battambang ngày 27 tháng 2 năm 1841. Bodindecha tiếp sứ và cho dịch thư. Nhưng sau khi thất nội dung gay gắt, ông lập tức cho Lê Quốc Hương về nước.[29] Trương Minh Giảng sau đó trở lại Phnom Penh ngày 5 tháng 2. Theo ghi chép của sử Thái, quân Việt ở thành Trấn Tây Phnom Penh có 20.000 người.

Trương Minh Giảng và Lê Văn Đức dâng sớ cho tân Hoàng đế Thiệu Trị rằng họ có 2.600 quân ở Hải Đông tức Kampong Thom do Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn chỉ huy, nhưng việc vận chuyển lương thực từ Phnom Penh đến Kampong Thom rất khó khăn. Sau khi Trương Minh Giảng đánh bật quân Xiêm khỏi Stoung và Chikraeng, quân Khmer nổi dậy dưới trướng tổng trấn Kampong Svay là Oknha Dechou Ros tan rã (Dechou Ros chạy sang Battambang do Xiêm kiểm soát), nên không cần duy trì quân ở đó nữa. Thiệu Trị chấp thuận kế hoạch rút quân khỏi vùng Kampong Svay–Kampong Thom. Quân Việt do Đoàn Văn Sách, Nguyễn Công Nhàn chỉ huy rút về đóng tại Kampong Chhnang[29] để phòng Xiêm từ Pursat kéo sang.

Người Xiêm đưa Ang Duong trở lại Campuchia

[sửa |sửa mã nguồn]

Trước kia, hai hoàng tử Ang Em và Ang Duong là những ứng viên tranh ngôi vua Campuchia do Xiêm hậu thuẫn. Tháng 11 năm 1838, Ang Duong âm mưu đảo chính ở Battambang nhưng bị thất bại, bị bắt giải về Bangkok, rồi bị quản thúc tại tư dinh của Phraya Si Sahathep. Tháng 12 năm 1839, đến lượt Ang Em bỏ trốn sang quy thuận Đại Nam, song lại bị Hoàng đế Minh Mạng giam giữ ở Huế.[19] Đến năm 1840, toàn bộ hoàng tộc Campuchia đều hoặc bị quản thúc, hoặc bị lưu đày: Ang Em ở tù đày tại Huế, ba công chúa Ang Mey, Ang Peou và Ang Sngoun bị quản thúc tại Sài Gòn, còn Ang Duong thì bị quản thúc tại Bangkok. Tháng 11 năm 1840, hai quan Khmer là Oknha Surkealok Muk và Oknha Vibolreach Long mang 18 lá thư của các Oknha đến nộp cho Chaophraya Bodindecha, tổng chỉ huy tối cao của Xiêm tại Pursat, khẩn cầu người Xiêm cho thả Ang Duong về Campuchia để làm minh chủ. Bodindecha giữ Oknha Surkealok Muk lại Battambang, còn sai Oknha Vibolreach Long đem 18 lá thư của các Oknha sang Bangkok trìn lên vua Nangklao.

Sau khi xem xét các thư, vua Nangklao phê chuẩn cho Ang Duong là Quốc vương mới của Campuchia, ban cho ông ta một bài huấn thị dài, dạy ông phải giữ vững Sammādiṭṭhi (“Chánh kiến”, tức là Phật giáo Nguyên thủy Theravāda) chống lại Micchādiṭṭhi (“Tà kiến”, chỉ các tôn giáo khác ngoài Theravāda) mà người Việt đang truyền bá. Xiêm triều cũng căn dặn Ang Duong phải tuyệt đối nghe theo và kính trọng tổng chỉ huy Bodindecha, người sẽ trợ giúp ông trên con đường bước lê ngai vàng Khmer. Vua Xiêm lại than rằng người Việt đang hủy hoại Phật giáo Theravāda ở Campuchia, phá chùa chiền và bắt sư sãi hoàn tục, nhằm biến người Khmer từ Chánh kiến sang Tà kiến.[8] Nangklao cho rằng việc phục hưng Phật giáo và giữ gìn bản sắc dân tộc Khmer làm sứ mệnh của mình.[8] Đồng thời, ông ta cũng ban lệnh về chiến lược quân sự: vì người Việt thường thắng trong các trận thủy chiến, vua căn dặn Bodindecha phải chặn các đường thủy của Campuchia, không cho quân Việt đi vào các thành thị Khmer, và đưa trận chiến lên đất liền càng nhiều càng tốt,[19] tránh đối đầu trực diện với quân Việt trên sông ngòi và kênh rạch Campuchia.

Ngày 1 tháng 2 năm 1841,[10] quan Xiêm là Phraya Siharaj Decho hộ tống Ang Duong cùng thánh chỉ của vua Xiêm từ Bangkok tới Battambang, đến nơi vào ngày 3 tháng 2. Sau khi nhận thánh chỉ, Bodindecha viết thư phúc đáp Xiêm vương, cam đoan rằng ông sẽ làm mọi cách để đưa Campuchia vào quyền kiểm soát của Xiêm. Ông sẽ khích lệ các Oknha Khmer từng chạy trốn sự đàn áp của người Việt đứng ra lãnh đạo phong trào chống Việt, để Campuchia và Việt Nam không bao giờ có thể trở thành đồng minh.[8] Bodindecha thừa nhận rằng các hoạt động ngoại giao của ông với người Việt có thể là thật hoặc giả, bởi khó có thể mong Đại Nam tự bỏ quyền lực ở Campuchia. Cuối cùng, Bodindecha tuyên bố rằng nếu ông thất bại trong việc đưa Campuchia vào quyền kiểm soát của Xiêm, thì cũng sẽ không để Đại Nam có được điều đó.[19]

Giai đoạn hưu chiến thứ nhất: Tháng 2 năm 1841 – Tháng 1 năm 1842

[sửa |sửa mã nguồn]

Thiết lập hai triều đình Campuchia đối địch

[sửa |sửa mã nguồn]

Khi quân Xiêm đã chiếm đượcPursat và quân Việt rút khỏi vùngKampong SvayKampong Thom,Chaophraya Bodindecha phong cho Snang Ey – thủ lĩnh Khmer từng nổi dậy chống sự cai trị của người Việt năm 1838 – làm Oknha Dechou Phakkedey, Phó tổng trấn của Kampong Svay, và đặt Oknha Dechou Ros cùng Oknha Dechou Snang Ey làm hai đồng Tổng trấn Kampong Svay, để phục hồi vùng đất vốn bị tàn phá bởi chiến trận Xiêm – Việt và chiêu tập dân Khmer phiêu tán trở về thị trấn. Quân Việt lúc này đã tập trung về thành Trấn Tây ởPhnom Penh, với lực lượng khoảng 20.000 người.[1] Chaophraya Nakhon Rachasima Thong-in – Tổng trấnNakhon Ratchasima và là phó tướng của Bodindecha – bị bệnh và phải rời mặt trận về quê nhà ngày 26 tháng 1 năm 1841.[27] Bodindecha liền xin vua Xiêm cử Chaophraya Yommaraj Bunnak làm đến phó tướng mới dưới quyền mình.

Trương Minh Giảng cùng Lê Văn Đức ra Huế bái kiến tân hoàng đếThiệu Trị, rồi trở lại Campuchia. Đầu tháng 2 năm 1841, khi trở về Campuchia, Trương Minh Giảng đem quân ra tấn công, thành công đánh bại và trục xuất hai Oknha nổi loạn là Oknha Vongsa Anchit Mey ở Prek Thnot (nay thuộcTa Khmau) phía nam Phnom Penh, và Oknha Outey Thireach Hing ởStueng Meanchey phía tây nam Phnom Penh.[23] Sau khi quét sạch các Oknha quanh Phnom Penh, Trương Minh Giảng sai Tôn Thất Quý[29] – một trong ba quan từng ký hiệp ước với Bodindecha – tấn công và tái chiếm Pursat đang do Oknha Surkealok Muk đang trấn giữ theo lệnh Bodindecha.

Vua Xiêm Rama trước đó đã lệnh cho Bodindecha dựngAng Duong lên ngôi Cao Miên quốc vương tại tại Pursat. Ngày 6 tháng 3 năm 1841,[1] Bodindecha cùng Ang Duong đến Pursat. Tôn Thất Quý đang công phá Pursat buộc phải rút lui. Theo chỉ dụ của nhà vua, Bodindecha áp dụng chiến lược chiếm đóng các vị trí cao, đối phó quân Việt vốn thường hành quân theo đường thủy. Bodindecha xây dựng một thành lũy mới cho Ang Duong trên vùng đất cao gần Pursat.

Do Lê Văn Đức bị bệnh mà xin từ chứcTham tán Đại thần ở Trấn Tây, nên vua Thiệu Trị bổ nhiệmNguyễn Công Trứ lên thay thế.[17] Nguyễn Công Trứ vốn chủ trương khôi phục vương triều Campuchia bằng cách "cảm hóa nhân tâm" hơn là bằng binh đao. Ông dường như đã thuyết phục Trương Minh Giảng dâng tấu lên Thiệu Trị vào tháng 3 năm 1841 xin phóng thích các thành viên hoàng tộc Campuchia, gồm các công chúaAng Mey, Ang Peou, Ang Sngoun đang bị giam ởSài Gòn, cùng hoàng tửAng Em – vốn từng nương nhờ nước Xiêm sau lại chạy sang Việt Nam nhưng lại bị tiên hoàngMinh Mạng giam cầm tại Huế. Trương Minh Giảng cũng xin tha cho các đại thần Khmer trước kia bị xử phạt, gồm Chauvea Tolaha Long (Trà Long), Samdech Chauponhea Hu (Nhâm Vu), Oknha Kralahom Kinh (La Kiên) – những người bị lưu đày raBắc Hà, và Oknha Veang Tom (Ốc Tâm) bị lưu đày ởVĩnh Long. Thiệu Trị chấp thuận cho ba công chúa và Oknha Veang Tom được hồi hương Campuchia, nhưng từ chối thả hoàng tử Ang Em cùng ba đại thần Khmer, cho rằng tội lỗi của họ chưa thể được dung tha.[29]

Triều đình Đại Nam giao cho Oknha Veang Tom dẫn đầu đoàn thuyền rước ba công chúa Ang Mey, Ang Peou, Ang Sngoun, cùng Neak Neang Ros – mẹ của Ang Em và Ang Duong – từ Sài Gòn về Phnom Penh, tới nơi ngày 27 tháng 4 năm 1841.[1] Trương Minh Giảng cho dựng các bảng công bố bằng tiếng Khmer loan báo hoàng tộc đã trở về Phnom Penh, nhằm khuyến dụ dân Khmer nổi loạn quay về với Đại Nam. Bodindecha hết sức lo ngại trước bước chuyển trong chính sách của người Việt, vì sự hiện diện của phe thân Việt tại Phnom Penh sẽ phá vỡ kế hoạch của ông trong việc kêu gọi dân Khmer thần phục Ang Duong. Bodindecha xét thấy Ang Duong ở Pursat quá xa Phnom Penh, khó lòng chiêu tập được sự ủng hộ, nên quyết định bỏ kế hoạch xây thành lũy mới ở Pursat, mà đưa Ang Duong về đóng ởOudong, kinh đô cũ của Campuchia, cách Phnom Penh chừng 30 km về tây bắc. Bodindecha cử con trai là Phra Phromborirak dẫn 5.000 quân hộ tống Ang Duong từ Pursat đi Oudong, khởi hành ngày 29 tháng 4 năm 1841 và đến nơi ngày 6 tháng 5,[1] an trí Ang Duong tại Khleang Sbek,[19] nơi từng là phủ củaChaophraya Aphaiphubet Baen, nhiếp chính do Xiêm bổ nhiệm giai đoạn 1790–1795.

Từ đó Campuchia bị chia ba phe: hai triều đình đối nghịch tại Oudong và Phnom Penh, lần lượt do Ang Duong và Ang Mey đứng đầu, được Xiêm và Việt Nam hậu thuẫn; và phe thứ ba là tập đoàn cát cứ độc lập của Oknha Chakrey Nong ở miền Đông Nam, lấyBa Phnum làm thủ phủ. Dù ở hai phe chính trị đối nghịch, nhưng hai nhánh hoàng tộc Khmer vẫn là thân thích. Ang Mey và Neak Neang Ros bí mật gửi thư cho Ang Duong tại Oudong, khẩn cầu ông đưa quân đến rước họ về Oudong. Nhưng Oknha Veang Tom – vị quan thân Việt đang giám sát Ang Mey – hay tin, liền siết chặt việc canh giữ, ngăn không cho các công chúa Khmer bỏ trốn.

Các cuộc nổi dậy ở người Khmer ở miền tây nam Đại Nam

[sửa |sửa mã nguồn]
Phân bố hiện đại củaNgười Khmer KromNam Việt Nam

Mặc dù đến thế kỷ XIX, Đại Nam đã kiểm soát hầu hếtNam Kỳ (Nam Bộ ngày nay) thông qua tiến trìnhNam tiến, song vẫn còn tồn tại một số thị trấn Campuchia do các quanOknha cai trị. Các Oknha Khmer vẫn giữ chức trấn thủ ở Moat Chruk (Mật Luật, nay làTịnh Biên), Umor (Ô Môn, gầnCần Thơ), Kramuon Sar (Khmer: ក្រមួនស, nay làAn Biên thuộc tỉnhKiên Giang) và Bassac (Khmer: បាសាក់, Ba Xuyên, nay là tỉnhSóc Trăng). Trong thời kỳ Việt Nam cai trị Campuchia, Trương Minh Giảng đã sáp nhậpChoan Chum, Moat Chruk, Umor và Bassac vào tỉnhAn Giang của Đại Nam.[26] Người Khmer vùngĐồng bằng sông Cửu Long khi bị nhập vào Việt Nam sau này được gọi làKhmer Krom.

Khi người Campuchia đồng loạt nổi dậy chống lại sự cai trị của Đại Nam vào tháng 9 năm 1840, hai lãnh tụ Khmer Krom là Oknha Reachea Setthey (Kỳ La)[17] – trấn thủ Moat Chruk (Tịnh Biên) – và Oknha Athikvongsa Tot (Việt Tốt)[17] – trấn thủ Bassac (Ba Xuyên) – đã phát động khởi nghĩa chống người Việt tại Tịnh Biên. Lê Quang Huyên- Tuần phủHà Tiên, sai các thủ lĩnh Khmer Krom khác là Oknha Ravidechou hay Oknha Thit (Chân Triết)[17] và Oknha Vongsa Sangkream Meas (Hàn Biện) ở An Biên đi đàn áp cuộc nổi dậy tại Tịnh Biên. Tuy nhiên, cả Oknha Thit và Oknha Meas đều quay sang cùng đồng bào Khmer Krom chống lại người Việt. Quân Khmer Krom lập căn cứ tạiTri Tôn gần dãyBảy Núi. Tháng 12 năm 1840, 2.000 quân Khmer Krom tấn côngRạch Giá, tổng hành dinh của người Việt ở An Biên. Lê Quang Huyên từ Hà Tiên đem thủy quân đến đánh tan quân Khmer Krom tại Rạch Giá.

Dương Văn Phong - người giữ chức Tổng đốc An Hà, kiêm quản hai tỉnh An Giang, Hà Tiên hợp binh với Lê Quang Huyên, làm thành thế gọng kìm đánh vào căn cứ Khmer Krom tại Tri Tôn cuối tháng 12 năm 1840. Quân Việt giết được Oknha Thit – thủ lĩnh nổi dậy – còn các lãnh tụ Khmer Krom khác chạy xuống hạ lưusông Hậu về Bassac (Ba Xuyên), nơi khởi nghĩa lại bùng phát.[26]

Chùa Dơi hay Vatt Siri Techo Maha Thup, một ngôi chùaTheravadaKhmer KromSóc Trăng hiện đại là nơi diễn ra trận chiến giữa người Khmer Krom và người Việt Nam vào đầu năm 1841.

Đầu tháng 2 năm 1841, các lãnh tụ Khmer Krom gồm Oknha Athikvongsa Tot (Sơn Tốt)[29] và Oknha Vongsa Sangkream Meas lại phát động khởi nghĩa tại Ba Xuyên (nay làSóc Trăng). Cuộc kháng cự này còn được người Hoa ở Nam Kỳ hưởng ứng, do thương nhân Trần Lâm (陳林) chỉ huy.[29] Dương Văn Phong, lúc ấy đang ở Tịnh Biên sau khi dẹp yên nơi này, đem thủy quân tới Sóc Trăng, đánh bại cuộc nổi dậy. Oknha Athikvongsa Tot tử trận, nhưng các lãnh tụ Khmer khác trốn thoát và tập hợp lại. Triều thần Campuchia còn phái Oknha Sena Reachea Sangkream, trấn thủBaribour, đem quân sang tiếp ứng cho lực lượng Khmer Krom ở Ba Xuyên. Do Dương Văn Phong phát bệnh, ông sai người thân chỉ huy quân Việt đi đánh quân Khmer Krom ở chùa Vatt Mahathup (Mã Tộc) cuối tháng 2, nhưng bị phục kích, quân Việt thảm bại và bị Oknha Vongsa Sangkream tiêu diệt.

Trương Minh Giảng lo ngại trước thất bại ở Ba Xuyên, bèn phái 1.000 quân do Mai Văn Đổng chỉ huy từ Phnom Penh đến trợ chiến. VìDương Văn Phong vẫn bệnh nênMai Văn Đổng được cử làm tướng xuất quân đánh quân Khmer ở chùa Vatt Mahathup lần nữa tháng 3 năm 1841, nhưng lại rơi vào mai phục, quân Việt bị thảm sát, Mai Văn Đổng tử trận. Vua Thiệu Trị nổi giận trước những thất bại nhục nhã này, bèn bãi chức Dương Văn Phong, bổ nhiệm Bùi Công Huyên lên thay chứcTổng đốc An Hà. Bùi Công Huyên vốn đang làmTổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường), nay kiêm nhiệm thì thành ra quản lý bốn trong sáu tỉnh Nam Kỳ. Đồng thời, Thiệu Trị cũng sai Nguyễn Văn Chương (sau đổi tên làNguyễn Tri Phương) từĐà Nẵng vào Nam tham gia trấn áp cuộc nổi dậy của Khmer Krom.[29]

Chùa Angkor, một ngôi chùa theo hệ pháiTheravadinTrà Vinh, gọi là Chùa Âng trong tiếng Việt.

Trong khi khởi nghĩa ở Ba Xuyên (Sóc Trăng) còn tiếp diễn, một cuộc nổi dậy khác lại bùng nổ ởTrà Vinh, phía đông bắc Sóc Trăng. Lạc Hóa (Trà Vinh ngày nay), vốn lâu đời là nơi cư trú của người Khmer, gọi là Preah Trapeang (ព្រះត្រពាំង), về sau bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Tháng 5 năm 1841, một cựu quan Campuchia tên Lâm Sâm tự xưng làNeak Sel (người thần bí có phép thuật), khoác áo cà sa giả làm sư, kêu gọi dân Khmer Krom ở Trà Vinh nổi dậy chống Việt và phục hồi vương quyền Campuchia. Cuộc nổi dậy mới này khiến quân Việt phải chia quân đàn áp cả ở Ba Xuyên lẫn Trà Vinh. Vua Thiệu Trị giao cho Bùi Công Huyên từ Phnom Penh đem quân dẹp loạn ở Trà Vinh, còn Nguyễn Văn Chương (Nguyễn Trí Phương) được lệnh trấn áp ở Ba Xuyên.[29]

Tháng 6 năm 1841, Bùi Công Huyên lập doanh trại ở Nguyệt Lãng, sai Trần Tuyên đem 1.000 quân Khmer-Việt làm tiên phong đánh dẹp quân Lâm Sâm tại Trà Vinh, nhưng bị phục kích, Trần Tuyên tử trận. Lâm Sâm thừa thế tấn công Bùi Công Huyên ở Nguyệt Lãng nhưng bị đẩy lui. Còn ở mặt trận Ba Xuyên, quân Nguyễn Văn Chương lại giành thắng lợi. Tuy quân ít hơn, ông vẫn mở cuộc tấn công cả đường bộ lẫn đường thủy vào trại Khmer Krom ở Trà Tâm, đánh tan và làm tan rã quân Khmer ở Ba Xuyên. Trong lúc ấy, Ang Duong – ứng viên ngôi vua Campuchia do Xiêm bảo trợ tại Oudong – phái Oknha Surkealok Kas, cựu tổng trấn Pursat, đi chiếmKênh Vĩnh Tế – tuyến thủy đạo nốiChâu Đốc và Hà Tiên. Oknha Kas cho lấp kênh để phá hủy con kênh này. Nguyễn Văn Chương vội từ Sóc Trăng kéo quân đánh đuổi Oknha Kas, rồi nhận thấy Xiêm có ý định triệt phá kênh, bèn xây lũy và bố trí thêm quân canh giữ.[29] Tháng 7 năm 1841, khi Nguyễn Văn Chương còn bận giữ kênh Vĩnh Tế, Lâm Sâm – thủ lĩnh nổi dậy Khmer Krom ở Trà Vinh – sai một người Hoa khác tên Chen Hong tập hợp lực lượng tấn công Ba Xuyên. Bùi Công Huyên phải kéo quân ra nghênh chiến, đánh lui được Chen Hong.

Quân Đại Nam rút khỏi Campuchia

[sửa |sửa mã nguồn]

Hoàng tử Ang Em từng là ứng viên ngôi vua Campuchia do Xiêm ủng hộ, trú tạiBangkok giai đoạn 1813–1833. Ang Em và em trai Ang Duong là anh em ruột, có cùng chung mẹ là Neak Neang Ros, một phi tần của vua chaAng Eng. Năm 1833, tướng Xiêm Chaophraya Bodindecha đem quân xâm lược Campuchia, đưa Ang Em và Ang Duong đến Phnom Penh để kêu gọi dân Campuchia ủng hộ người Xiêm.[11] Tuy nhiên, 20 sống ở Xiêm đã khiến Ang Em và Ang Duong xa rời dân chúng Khmer.[9] Cả hai đều không khơi dậy được sự hưởng ứng rộng rãi và đến đầu năm 1834, quân Xiêm buộc phải rút lui. Để cho họ học tập việc trị nước,[9] vua Xiêm bổ nhiệm Ang Em làm tổng trấn Battambang và Ang Duong làm tổng trấnMongkol Borey (đều thuộc vùng Tây Bắc Campuchia do Xiêm kiểm soát). Tuy nhiên, mâu thuẫn sớm nảy sinh giữa hai anh em, khiến Ang Duong bị đưa về Bangkok năm 1838. Ang Em, theo lời xúi giục của Trương Minh Giảng[11] và sự bất mãn vì Xiêm triều không lập mình làm vua Campuchia nên đã bỏ sang hàng Đại Nam năm 1839, nhưng sau lại bị giam ở Huế, còn con trai ông là hoàng tôn Ang Phim bị lưu đày tớiKhánh Hòa thuộcTrung Kỳ.

Tháng 2 năm 1841, vua Xiêm chuẩn nhận Ang Duong làm ứng viên ngôi vua Campuchia do Xiêm bảo trợ, ra lệnh cho tướng Bodindecha làm lễ sách lập Ang Duong làm quốc vương.[23] Bodindecha đưa Ang Duong đi Battambang, Pursat, rồi đến Oudong – kinh đô cũ của Campuchia – vào tháng 5 năm 1841.[1] Trong khi đó, hoàng đế Thiệu Trị cho phép các công chúa Campuchia Ang Mey, Ang Peou, Ang Snguon cùng Neak Neang Ros (mẹ của Ang Em và Ang Duong) từ Sài Gòn trở về Campuchia, nhằm kêu gọi dân Khmer ủng hộ Việt Nam. Nguyễn Công Trứ – Tham tán Trấn Tây – đề xuất chủ trương thu phục Campuchia bằng "vận động nhân tâm", sử dụng hoàng tộc Khmer để gây cảm tình, thay vì chỉ dựa vào binh lực như trước. Ang Mey và các công chúa khác đến Phnom Penh tháng 4 năm 1841 nhưng không đạt kết quả, vì dân Khmer đã quá mệt mỏi sau sáu năm cai trị của Việt Nam. Trong nỗ lực cuối cùng cứu vãn chính quyền Trấn Tây, tháng 7 năm 1841 Nguyễn Công Trứ dâng sớ xin vua Thiệu Trị tha tội và thả Ang Em,[29] cho phép ông ta trở lại Campuchia để kêu gọi ủng hộ.

Sau hơn một năm bị giam, Ang Em được thả, và cùng con trai Ang Phim trở về Campuchia, tới Phnom Penh ngày 6 tháng 10 năm 1841. Nhưng Ang Em, cũng như Ang Mey, vẫn không chiêu tập được sự ủng hộ của dân Khmer. Tình thế quân Việt tại thành Trấn Tây ngày càng nguy ngập: thiếu lương thực, đói khát, dịch bệnh, lại bị các Oknha Khmer nổi loạn bao vây bốn phía. Cuối cùng, người Việt quyết định bỏ Campuchia, rút hết về Châu Đốc. Các đại thần tại Trấn Tây, gồm Trương Minh Giảng (Tướng quân), Phạm Văn Điển (Kinh lược đại thần), Nguyễn Công Trứ (Tham tán Đại thần), Đoàn Văn Sách (Đề đốc) và Nguyễn Công Nhàn (Lãnh binh), đều dâng sớ xin vua Thiệu Trị cho rút quân khỏi Campuchia. Bản thân Thiệu Trị cũng cho rằng giữ Campuchia là vô ích, vì việc duy trì Trấn Tây thành đã làm hao tổn sức dân Nam Kỳ,[29] mà Thiệu Trị xem họ là thần dân của mình, còn người Khmer thì không.

Cuối tháng 10 đến đầu tháng 11 năm 1841, quân Việt phá bỏ thành Chàm ở Chroy Changvar, tập hợp khoảng 2.000[1] người Khmer, Việt, Hoa và Chăm Hồi giáo còn trung thành với Việt Nam, cùng hoàng tộc Campuchia gồm Ang Em, Ang Mey, Ang Peou, Ang Sngoun, Ang Phim và Neak Neang Ros, đem tất cả xuôi dòng sông Hậu về Châu Đốc, tới nơi ngày 9 tháng 11 năm 1841. Trương Minh Giảng,Tướng quân Trấn Tây sáu năm liền từ 1835 – không chịu nổi nỗi nhục mất Campuchia, đã uống thuốc độc tự vẫn.[11][24] Vua Thiệu Trị bãi bỏ thành Trấn Tây và toàn bộ các chức vụ, tước hiệu liên quan.[29] Việc quân Việt rút khỏi Campuchia là một thắng lợi của Xiêm, và họ nhanh chóng xác lập lại quyền bá chủ tại Campuchia, thay thế cho người Việt.

Người Xiêm lập lại quyền bá chủ đối với Campuchia

[sửa |sửa mã nguồn]

Chaophraya Bodindecha, tổng chỉ huy tối cao của Xiêm tại Campuchia, trước đó đã sai con trai là Phra Phromborirak đưa Ang Duong từ Pursat về Oudong vào tháng 5 năm 1841, an trí tại Khleang Sbek. Tại đây, Ang Duong lập triều đình riêng để đối đầu với triều đình do Đại Nam hậu thuẫn của cháu gái ông là Ang Mey ở thành Phnom Penh, trong khi Bodindecha vẫn đóng quân tại Pursat. Sáu tháng sau, đầu tháng 11 năm 1841, quan quân lại Việt Nam cuối cùng cũng rút khỏi Campuchia, từ Phnom Penh về Châu Đốc, nơi Trương Minh Giảng tự vẫn,[11][24] chấm dứt sự thống trị của Việt Nam tại Campuchia. Thời điểm người Việt rút đi cũng là lúc mà Xiêm La xác lập quyền bá chủ tại Campuchia. Chaophraya Bodindecha dẫn đại quân từ Pursat về Oudong, tới nơi ngày 2 tháng 12 năm 1841.[1]

Chaophraya Bodindecha, vốn luôn tìm kiếm một vị trí chiến lược dễ phòng thủ để xây thành bảo vệ Ang Duong trước sự tấn công người Việt, đã tính tới việc dựng thành mới tạiPonhea Lueuu,[11] một khu vực ở phía nam Oudong. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra cần phải chiếm lĩnh Phnom Penh vì vị trí chiến lược quan trọng của thành phố này[11] – nơi hợp lưu bốn dòng sông, là trung tâm giao thông liên lạc của Campuchia. Bodindecha sau đó đưa Ang Duong từ Oudong xuống Phnom Penh, đến nơi ngày 18 tháng 12. Ang Duong cùng quân Xiêm chọn Phnom Penh làm đại bản doanh mới.

Sự rút lui của người Việt đã cho phép người Xiêm kiểm soát Campuchia. Thực tế, đây là lần đầu tiên sau 28 năm, kể từ năm 1813, Xiêm mới trở lại làm bá chủ Campuchia. Trải qua nhiều thập niên với những chiến dịch tấn công, thủ đoạn chính trị, xen kẽ thắng và bại, và nhân cơ hội cuộckhởi nghĩa Campuchia chống Việt Nam giai đoạn 1840–1841, Xiêm đã giành lại quyền kiểm soát Campuchia, sau khi từng để trongbiến cố 1812–1813. Tuy nhiên, đến năm 1841, vẫn còn một tập đoàn độc lập của Oknha Chakrey Nong, không thần phục Ang Duong, tồn tại tại ở Ba Phnum miền Đông Nam Campuchia, .

Quân Xiêm lập kế phá kênh Vĩnh Tế

[sửa |sửa mã nguồn]
Một đoạnKênh Vĩnh Tế tạiChâu Đốc,tỉnh An Giang

Ngay sau khi Chaophraya Bodindecha cùng Ang Duong chiếm giữ Phnom Penh, vua Xiêm lại đề ra kế hoạch lấp và phá hủykênh Vĩnh Tế, tuyến thủy đạo nối Châu Đốc với cảng Hà Tiên, vốn là đường giao thông trọng yếu của Việt Nam. Kênh Vĩnh Tế được đào trong nhiều năm và hoàn thành vào năm 1824. Triều đình Xiêm từ thập niên 1820 đã nhìn kênh này với con mắt nghi ngờ, coi đó là mối nguy chiến lược. Theo quan điểm Xiêm, kênh Vĩnh Tế giúp thủy quân Việt Nam từ Nam Kỳ dễ dàng ravịnh Xiêm La, đe dọa trực tiếp đến Bangkok. Tháng 12 năm 1841, vua Nangklao từ Bangkok gửi lệnh mới cho Bodindecha ở Phnom Penh: lợi dụng sự thất thế của người Việt để tấn công Nam Kỳ, nhằm phân tán lực lượng quân Việt, trong khi Bodindecha sai dân phu lấp phá kênh Vĩnh Tế. Nếu kênh bị cắt, Châu Đốc và Hà Tiên sẽ bị cô lập, không còn hỗ trợ được lẫn nhau.[11] Xiêm triều dự kiến cử hai đạo quân: một theo đường bộ từ Campuchia đánh Châu Đốc, một theo đường biển đánh Hà Tiên. Nhà vua cũng nhấn mạnh rằng Bodindecha được trao toàn quyền tại Campuchia, có thể tự quyết mọi việc.

Vì Ong Tian Kun [Trương Minh Giảng] đã rút hết quân khỏi Campuchia, nên nay Campuchia thuộc về Ang Duong. Ái khanh phải lấp cái kênh đào [Vĩnh Tế] kia trước, không cho người Duồn khơi lại mà dùng làm thủy đạo. Như thế quân Duồn canh giữ Banthaimat [Hà Tiên] sẽ tan rã, để rồi ta có thể mạnh dạn đánh Banthaimat [Hà Tiên] và Chodok [Châu Đốc]. Nếu Banthaimat [Hà Tiên] không giữ nổi, thì Chodok [Châu Đốc] ắt cũng mất; lại được thêm dân Khmer sẽ phấn khởi hăng hái xung phong, càng thêm dũng mãnh, thì người Duồn có thể nào mà chống chọi được?

[1][11]

Sau khi nhận chỉ dụ này, Bodindecha nhận ra nhiệm vụ rất khó khăn.[11] Muốn phá hủy vĩnh viễn kênh Vĩnh Tế, Xiêm phải kiểm soát chặt chẽ cả hai bên bờ kênh, vốn thuộc các huyện Hà Âm và Hà Dương do Đại Nam quản lý vững chắc. Dù Xiêm đã giành được Campuchia, nhưng xâm chiếm lãnh thổ bản thổ Nam Kỳ lại là chuyện khác. Để chiếm kênh Vĩnh Tế và trụ vững lâu dài, Xiêm phải bỏ ra lượng lớn binh lực và tài lực.

Các Oknha Khmer ở Kampot từng cầu Xiêm chống Việt, nên Xiêm triều đã phái một hạm đội từ Bangkok đến neo tại đảoKoh Kong. Tháng 10 năm 1841, vua Xiêm cử Phraya Ratchawangsan Nok – chỉ huyKrom Asa Cham (quân thủy gốc Mã Lai trong biên chế Xiêm) – đem 10 chiến thuyền kiểu Việt (đóng năm 1835, mô phỏng theo thuyền Việt) với 552 quân, tới đóng ở đảo Koh Kong, hợp cùng hạm đội Xiêm có sẵn, chuẩn bị tấn công Hà Tiên. Nạn thiếu gạo ở Campuchia vốn là vấn đề nan giải cho cả Xiêm lẫn Việt. Vua Xiêm sai vận chuyển một lượng lớn gạo bằng chiếcbrigAriel – con tàu Tây phương đầu tiên do Xiêm đóng (năm 1835, doChuang Bunnag chế tạo) – đưa sang cho Bodindecha tại Campuchia.[1]

Trước đó, tháng 7 năm 1841, Bodindecha và Ang Duong từng phái Oknha Surkealok Kas đi đánh kênh Vĩnh Tế, nhưng bị Nguyễn Văn Chương (Nguyễn Trí Phương) đánh lui. Việc này khiến quân Việt hiểu rằng Campuchia–Xiêm đang mưu phá kênh, nên Nguyễn Văn Chương lập nhiều đồn binh dọc kênh để phòng thủ. Bodindecha sau đó báo về triều rằng người Việt đã dựng 19 đồn, mỗi đồn có khoảng 100–200 quân trấn giữ.[11] Ông cũng than phiền thiếu tướng giỏi ở Campuchia và xin triều đình bổ sung tướng lĩnh chỉ huy cho cả đường bộ lẫn đường biển đánh Nam Kỳ.[11] Cuối cùng, Bodindecha còn đề nghị số gạo từ tàuAriel phải được chuyển qua cảng Kampot.

Người Việt đàn áp khởi nghĩa Khmer Krom

[sửa |sửa mã nguồn]

Phạm Văn Điển là quan hàm cao nhất trong số cựu quan Trấn Tây còn lại sau khi Trương Minh Giảng mất. Khi quân Việt rút khỏi Campuchia về Châu Đốc đầu tháng 11 năm 1841, Phạm Văn Điển sắp xếp cho Ang Mey và các công chúa Campuchia ở tại Châu Phú, phía nam Châu Đốc. Việc rút khỏi Campuchia cho phép Việt Nam tập trung binh lực để đàn áp các cuộc nổi dậy Khmer Krom vẫn còn tiếp diễn ở Nam Kỳ. Lãnh tụ Khmer Lâm Sâm đã kêu gọi người Khmer Krom và Hoa kiều tại Ba Xuyên (Sóc Trăng) và Lạc Hóa (Trà Vinh) chống lại sự cai trị của Việt Nam.

Ngay khi đến Châu Đốc, Phạm Văn Điển lập tức sai Đoàn Văn Sách và Nguyễn Công Nhàn đem 3.000 quân đi dẹp cuộc khởi nghĩa Khmer Krom tại Lạc Hóa. Những cựu quan, cựu tướng Trấn Tây này vốn bị kết tội làm mất Campuchia, nhưng được tha thứ vì triều đình Thiệu Trị cần kinh nghiệm quân sự của họ, buộc họ phải lập công chuộc tội trong việc đàn áp khởi nghĩa Khmer Krom. Thiệu Trị bổ nhiệm các cựu quan Trấn Tây vào các chức vụ ở Nam Kỳ:[29]

  • Phạm Văn Điển được làmquyền Tổng đốc An Hà, kiêm quản An Giang và Hà Tiên. Tỉnh An Giang khi ấy quản hạt cả Ba Xuyên (Sóc Trăng).
    • Nguyễn Công Trứ làmquyền Tuần phủ An Giang, dưới quyền Phạm Văn Điển.
  • Nguyễn Văn Chương tuy không phải quan Trấn Tây, nhưng có công lớn trong việc đàn áp Khmer Krom, được bổ làmTuần phủ Vĩnh Long, kiêmTổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường). Tỉnh Vĩnh Long khi ấy quản hạt Lạc Hóa (Trà Vinh).
  • Lê Văn Đức, trước đó từ chứcTham tán Đại thần Trấn Tây (tháng 3 năm 1841) vì bệnh, được bổ làmTổng đốc Định Biên, coi việc hai tỉnhGia ĐịnhBiên Hòa (vùng Sài Gòn, Đồng Nai).

Ngoài ra, một số cựu quan Trấn Tây khác cũng được bổ dụng ở An Giang và Hà Tiên. Theo các nguồn sử liệu Việt Nam, vào tháng 11 năm 1841 có 10.000 quân Xiêm dưới quyền Bodindecha đóng tại Oudong và 10.000 quân khác ởKampong Saom (đảo Koh Kong), trong khi quân nổi dậy Khmer Krom tại Nam Kỳ có 5.000 người. Tuy nhiên, vua Thiệu Trị không tin báo cáo này, cho rằng nạn thiếu gạo ở Campuchia khiến người Xiêm không thể duy trì nhiều quân như thế. Cả Xiêm lẫn Việt đều khốn đốn vì thiếu lương trong thời gian chiếm đóng Campuchia. Ngay cả các Oknha Khmer cũng không nuôi nổi quân, phải cho binh lính về nhà tìm lương thực.[10]

Hoàng thân Khmer Ang Em tình nguyện giúp Việt Nam đàn áp khởi nghĩa Khmer Krom. Phạm Văn Điển giao cho Ang Em chỉ huy một đạo quân Khmer Krom trung thành với Việt Nam, theo Nguyễn Văn Chương đi dẹp loạn. Nhờ sự hỗ trợ của lực lượng Trấn Tây cũ, Nguyễn Văn Chương cuối cùng đã đánh bại và chấm dứt khởi nghĩa Khmer Krom ở Lạc Hóa (Trà Vinh) cuối tháng 11 – đầu tháng 12 năm 1841.[17] Sự hiện diện của Ang Em khiến nhiều binh sĩ Khmer Krom chịu buông vũ khí quy phục Việt Nam, làm tan rã phong trào chống Việt. Nguyễn Văn Chương bắt được 7.683 quân nổi dậy, gồm người Khmer Krom, Hoa kiều và cả người Việt bất mãn. Thủ lĩnh khởi nghĩa ở Lạc Hóa bị xử tử, đầu bị treo bêu. Riêng thủ lĩnh chính Lâm Sâm trốn thoát.[29]

Vua Thiệu Trị, vì chấn động trước việc mất Campuchia, một thời gian không muốn bàn việc phòng thủ chống Xiêm ở Campuchia. Cuối tháng 12 năm 1841, Lương Văn Liễu –Tuần phủ Hà Tiên – phát hiện quân Xiêm hoạt động ở đảo Koh Kong gần Kampot, sát Hà Tiên. Lương Văn Liễu xin thêm quân và xin tăng cường phòng thủ Hà Tiên, nhưng Thiệu Trị bác bỏ, cho rằng Hà Tiên đã được quân Châu Đốc che chở. Quan quân Nam Kỳ bắt đầu nhận nhiều tin về hoạt động của Campuchia gầnbiên giới Việt – Cam. Đầu tháng 1 năm 1842, Nguyễn Công Trứ – Tuần phủ An Giang – cùng Đoàn Văn Sách đem quân đi thị sát kênh Vĩnh Tế, báo về triều về khả năng người Khmer tấn công kênh đào trong mùa khô này là rất lớn và xin thêm viện binh. Thiệu Trị lại từ chối, cho rằng người Khmer quá rời rạc để mở một cuộc công kích quy mô.[29]

Khi biết các tướng Nam Kỳ cho Ang Em tham gia dẹp khởi nghĩa và nhiều Khmer Krom đã quy phục Ang Em, Thiệu Trị tỏ ra không vui. Ông muốn người Khmer Krom Nam Kỳ phải trực tiếp là thần dân của mình chứ không phải của Ang Em. Thiệu Trị khiển trách các tướng vì đã cho Ang Em tham dự, cho rằng quân Việt đủ sức dẹp loạn mà không cần Ang Em. Thiệu Trị lệnh cho Ang Em đi sangThất Sơn để kêu gọi người Khmer ở Campuchia thuộc Xiêm.[29] Biên niên sử Xiêm còn ghi rằng Ang Em "cai quản" các thị trấn Khmer Nam như Treang Troi Tras (Choan Chum), Toek Khmau (Cà Mau), Kramuon Sar (An Biên), Umour (Ô Môn), Moat Chruk (Tịnh Biên), Bassac (Sóc Trăng) và Preah Trapeang (Trà Vinh).[1]

Tháng 1 năm 1842, Nguyễn Văn Chương từ Lạc Hóa phối hợp với Ang Em từ Châu Đốc tiến đánh căn cứ cuối cùng của Khmer Krom tại Ba Xuyên (Bassac). Cuộc nổi dậy Khmer Krom chống Việt, kéo dài từ tháng 10 năm 1840, về cơ bản đã kết thúc, tuy sau đó còn lác đác những cuộc nổi dậy nhỏ. Lâm Sâm, thủ lĩnh Khmer, bị chính đồng bào Khmer Krom trung thành với Việt Nam bắt và xử tử bằng hình thứclăng trì vào tháng 1 năm 1842.

Diễn biến trận 1842 trên đất Việt Nam

[sửa |sửa mã nguồn]

SáchViệt Nam sử lược chép:

Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm vàNguyễn Công Trứ dẹp xong giặcLâm SâmNam Kỳ, thì quân Tiêm La (Xiêm La) lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc để đánh phá. Vua bèn saiLê Văn Đức làm tổng đốc đem binh tướng đi tiễu trừ. SaiNguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặtVĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặtHậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây (Nam Vang). Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu...[30]

TheoBản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện của Giá Sơn Kiều Oánh Mậu soạn năm 1901, thì diễn biến của cuộc chiến năm 1842 đại để như sau:

Tướng Phi Nhã Chất Tri đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờkênh Vĩnh Tế, rồi qua lại gây sự với những đồn bảo của quân Việt. Quan binh ra bèn chia ra nhiều cánh, đi tiểu trừ, giết và làm bị thương rất đông, chiếm lấy được một loạt bảy đồn ở bờ kênh Vĩnh Tế. Những gián điệp do Xiêm tổ chức ởnúi Tượngnúi Cấm nghe tin, bèn chạy trốn. Quân Xiêm toan mở cuộc tấn công khác, nhưng trong nước Xiêm xảy ra việc bất ổn, nên tạm ngưng kế hoạch.
Năm sau (1842), quân Xiêm đổ bộ lên Hà Tiên, ta chặn giặc tạiđồn Vĩnh Thông. Tình thế trở nên căng thẳng, quân Xiêm có thêm cánh quân theosông Tiền,sông Hậu đổ xuống. Tướng Nguyễn Tri Phương lại tâu về triều đình, nhận định rằng mất sông Tiền là mất An Giang,Vĩnh Long,Định Tường, nên ta cần đem binh giữ và phòng bị cẩn mật những đồnThông Bình (Tuyên Bình), Hùng Ngự (Hồng Ngự),Tân Châu,An Lạc. Chiến thuyền từHuế, quân sĩ từQuảng Nam,Quảng Ngãi được đưa gấp vào chiến trường chính.
Tổng đốc Lê Văn Đức đưa quân đếnBảy Núi (An Giang), hợp đồng với quân của quyền Tổng đốc An Hà làPhạm Văn Điển. Ông Điển đóng đồn phòng thủ ở hậu cứ núi Cấm, trong khi Lê Văn Đức và Lê Văn Phú kéo quân đến núi Tượng, thì quân Xiêm hoảng chạy.
Lê Văn Đức lại kéo quân đến Xà Tón (Tri Tôn,An Giang), vừa gặp Tán lý Tôn Thất Tường tới, liền chia ra 5 đạo, mỗi đạo một ngàn quân, đem súng lớn phá tan đồn lũy quân Xiêm. Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tri Phương cùng nhau cũng tấn binh đến núiCô Tô, đuổi được quân đối phương. Sau đó, Nguyễn Công Trứ lãnh trách nhiệm xây dựng, khuyến khích dân địa phương trở lại canh tác bình thường, nhưng kết quả không khả quan. Quân Xiêm cứ âm mưu trở lại, mặc dầu đã bị đánh đuổi ra khỏi biên giới...[31]

Tháng 2 nămNhâm Dần (1842), quân Xiêm-Lạp chia nhau lập 18 đồn trại từ núi Lộc Giác đến quãng đường bộ ở Chu Nham, một mặt chặn Kim Dữ một mặt giữ Lô Khê, ngày đêm vây hãmtỉnh Hà Tiên. Quân Việt chia nhau phòng bị Hà Tiên: đề đốc Vĩnh LongĐoàn Văn Sách cùng án sát Hà Tiên Đinh Văn Huy đóng giữ pháo đài ở cửa biển Kim Dữ, còn các quan tỉnh Hà Tiên là tuần phủ Lương Văn Liễu, bố chính Trần Văn Thông, lãnh binh Mai Văn Tích, nguyên án sátHoàng Mẫn Đạt chia nhau đánh giữ tỉnh thành Hà Tiên, đồn Chu Nham và các nơi xung yếu. Quân Xiêm-Lạp vỡ trận, thuyền tan từng mảng trên cửa biển Kim Dữ, tháo chạy về đêm tới vùng biển Quảng Biên. Quân Việt đuổi theo truy kích, thu được nhiều súng lớn, rồi thu quân về giữ các đảo ven bờvịnh Thái Lan ở Hà Châu, Hà Tiên. Sau đó, Đoàn Văn Sách,Lương Văn Liễu báo tin thắng trận tới vua Thiệu Trị đang ởHà Nội tuần thúBắc Hà.[32]

Sau đó cũng trong tháng 2, ở mặt tỉnhAn Giang, tuần phủNguyễn Công Trứ, đề đốcNguyễn Công Nhàn tâu rằng: Tại dảisông Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông đến Tiên Nông, bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc đến Tĩnh Biên, hơn 20000 quân Xiêm - Lạp đóng đồn trại liên tiếp, thừa dịp thì kéo sang phía Hậu Giang tiến đánh Đa Phúc, Cần Thăng, thậm chí tiến tới vây bức Tân Châu, An Lạc ở Tiền Giang. Quân Việt ở đây không đủ phòng giữ, liền xin triều đình thêm viện từ cánh quân Đoàn Văn Sách ở Hà Tiên. Vua không cho, thay vì thế cử Tôn Thất Nghị đem quân tiếp viện cho An Giang. Đến tháng 3 âm lịch, sau khi đánh dẹp xong mặtsông Hậu Giang, tổng đốcPhạm Văn Điển đem binh thuyền đến quân thứHà Âm (sông Vĩnh Tế) hội quân với Nguyễn Công Nhàn, Nguyễn Lương Nhàn ở mặt này. Lãnh binh Lương Nhàn vốn cùng Tôn Thất Nghị ở mặt Ba Xuyên tạm ổn đem quân về tăng viện cho Vĩnh Tế. Điển thấy một dải Hà Âm dọc kênh Vĩnh Tế từ suốt dọc trường lũy Vĩnh Điền đến Tiên Nông, đối phương lập 8 đồn gần các đồn Vĩnh Thông, Tiên Nông, Thôn Nhân (Thân Nhân), Vĩnh Lạc của quân nhà Nguyễn (quân Việt chỉ có 5000 quân chống giữ). Điển liền bố trí Đoàn Văn Mật (1000 quân) được Tôn Thất Nghị (500 quân) tiếp ứng đánh các đồn bên tả của địch. Nguyễn Lương Nhàn (600 quân) đánh phía hữu đối phương. Nguyễn Công Nhàn (1300 quân) đánh 3 đồn giữa, theo sau tiếp ứng là bản thân Điển (với 1600 quân). Với 5 sở (8 đồn), mỗi đồn quân Xiêm-Lạp có khoảng 2000 quân. Phía Mật và Nghị đánh tan quân Xiêm Lạp trước liền tiến tới hợp cùng đạo binh của Công Nhàn. Quân Xiêm-Lạp ở 13 trại trong rừng kéo ra tiếp viện. Điển sai Dương Hựu, Phạm Phúc Minh chặn đánh. Lương Nhàn kéo quân đánh úp phía sau. Quân Xiêm-Lạp thua chạy vào rừng (13 trại trong núi không đánh mà vỡ), quân đồn trú trong 8 đồn thì bị vây giáp. Điển và Công Nhàn phá tan quân Xiêm-Lạp ở Hà Âm và Hà Dương ven kênh Vĩnh Tế trong tháng 3 âm năm 1842. Tuy vậy, quân Xiêm Lạp vẫn còn chiếm giữ vùng Thất Sơn, Xà Tôn thuộc Hà Dương. Nhưng một loạt tướng sĩ quân nhà Nguyễn như Nguyễn Công Trứ, Phạm Văn Điển, Đinh Văn Huy sau đợt này đều ốm bệnh, riêng Điển và Huy mắc bệnh rồi mất vào tháng 4 âm lịch. Công Nhàn thay Điển làm tổng đốc An Hà, Lương Nhàn làm đề đốc An Giang, Tôn Thất Nghị làm lãnh binh An Giang.

TheoLịch sử khẩn hoang miền Nam của nhà vănSơn Nam:

Bản đồ Nam Kỳ với các địa danh giữa thế kỷ 19.
Tháng Giêng năm 1842, chiến thuyền Xiêm đến vùng đảoPhú Quốc, tấn công để dò xét. Nguyễn Công Trứ, thử trổ tài, nhưng bị "sóng gió ngăn trở". Bọn Hoàng Tôn (tự xưng là con củaHoàng tử Cảnh, lấy hiệu là Hoàng Tôn) đưa 5000 người đến Sách Sô,[33] là vị trí quan trọng ở giữa sông Tiền và sông Hậu. Tướng Nguyễn Tri Phương liền đem binh thuyền bố trí sẵn.
Tháng 2 năm 1842, quân Xiêm lại tăng cường hải quân, đến gần Cần Vọt (Quảng Biên,Kampot), rồi kéo tới Bạch Mã (Kép) với ý định chiếm Lư Khê (Rạch Vược, phía Nam Hà Tiên) và chiếm Tô Môn (cửaĐông Hồ, bên cạnh núi Tô Châu) để bao vâyHà Tiên. Xiêm kéo mấy vạn binh tràn vùngkênh Vĩnh Tế, quân Việt chống đỡ không kịp. Cánh quân chánh của Xiêm đánh từ bờ biển vịnh Xiêm La qua theo đường Hà Tiên, chớ không từ Nam Vang mà thọc xuống theo sông Tiền như mấy lần trước.
Trước nguy cơ ấy, vua Thiệu Trị cho quân lực từ Huế kéo vào tăng cường, cùng với lính thú từ Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm bị chặn lại, ở khắp các mặt trận Vĩnh Tế, sông Tiền và sông Hậu. Nhưng quân Xiêm chưa rút lui, cho củng cố thành lũy, chiếm trọn vùngnúi Cô Tô.
Tháng 5 năm ấy, quân Việt kéo vào chiếm lại khu Cô Tô. Đoàn binh gồm năm đạo, mỗi đạo 1000 quân, đem súng lớn đặt tại Tri Tôn (Xà Tón) mà bắn phá đồn lũy đối phương. Nguyễn Tri Phương đem đại binh đến núi Cô Tô, quân Xiêm tan, một số đông ra đầu thú, trong số đó có cả người Tàu và người Miên có đến số ngàn. Vua Thiệu Trị sai Nguyễn Công Trứ điều động việc lập ấp, khuyến khích khẩn ruộng. Nhưng việc làm này không đi tới đâu cả...[34]

Chiến dịch phản công của quân nhà Nguyễn trên đất Cao Miên năm 1845

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau đó, cũng theoViệt Nam sử lược, thì ở Chân Lạp, quân Xiêm La lại giở trò tàn bạo, khiến người Chân Lạp không phục, lại nổi lên và cử người sang cầu cứu quân đội Việt. Vua Thiệu Trị bèn sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp. Tháng 6 nămẤt Tỵ (1845), Võ Văn Giải vào đếnGia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương,Doãn Uẩn,Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Thiết Thằng (Dây Sắt), lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp và Xiêm về hàng kể hơn 23.000 người. Tiếp theo, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh truy đuổi liên quân Xiêm La - Chân Lạp, vây vua Nặc Ông Đôn và tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri (Chao Phraya Bodin) ở Ô Đông (Oudon).

Kế hoạch

[sửa |sửa mã nguồn]

Tháng 6 âm lịch nămẤt Tỵ (1845), (Tháng 6-9 âm lịch ở hạ lưu sông Mê Kông vùng thuộc Campuchia và Việt Nam thường đang vào mùa nước nổi (lũ)), kế hoạch ban đầu của vuaThiệu Trị:

  • Cử Võ Văn Giải (hậu quân đô thống kiêmTổng đốc Định Biên),Tôn Thất Bạch (Thượng thưBộ Binh) làm Khâm sai đại thần kinh lý Nam Kỳ trù tính việc Trấn Tây.[35]
  • Lấy các đạo binh thuộc quân thứAn Giang,Định Tường (Đồng Tháp,Long An),Gia Định (Long An, Tây Ninh) chia làm 3 đường tiến sang đất Cao Miên từ các đồn:Tân Châu (thuộc An Giang),Thông Bình (thuộc Định Tường), vàTây Ninh (thuộc Gia Định). Tướng lĩnh đứng đầu 3 đạo binh là các quan hàng tỉnh của An Giang, Định Tường và Gia Định.
  • Đạo binh Tân Châu ban đầu định do Tổng đốc An Hà Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) chỉ huy, nhưng sau thay đổi kế hoạch doNguyễn Văn Hoàng (đề đốc An Giang) nắm, theo đường thủy lớnsông Tiền Giang (tức Tonlé Bassac Thượng) tiến tới đánh đồn Ba Nam (đồn trọng yếu trên sông Me Kong (Tiền Giang), nay là Phumi Ba Nam thuộc thị trấnNeak Loeanghuyện Peam Rotỉnh Prey Veng). Đồn Ba Nam nằm kẹp giữa sông Tiền (Bassac Thượng) và sông Ba Nam (Prek Banam), một phân lưu của Bassac Thượng chảy từ ngã ba Ba My (tức Trà Mạt) song song với sông Bassac Thượng về tớisông Sở Thượng trên biên giới Việt-Miên.
  • Đạo binhThông Bình do Doãn Uẩn (tuần phủ An Giang) chỉ huy, theo đường sông nhánh (sôngPrek Trabeak, nhà Nguyễn gọi là sông Tam Ly[36] với đoạn cuối theo hướng bắc-nam từ điểm nối với sông Vàm Dừa (tứcrạch Cái Cỏ, hay Prek Kompong Snay) đến điểm gặpsông Sở Hạ (Prek Krom, hay rạch Lợi Ban), làm thành đoạn biên phía tây của Thông Bình với Campuchia vào thời nhà Nguyễn được tính là đoạn đầu của sông Vàm Dừa (Cái Cỏ) chảy dọc biên giới Việt Miên. Sông Prek Trabeak là nhánh của sông Tiền chảy qua phủ lỵ Ba Nam (Ba Phnum) và đồnThông Bình) tiến vào suốt trong lòng phủ Nam Ninh (tức là phủ Ba Nam (mới đổi trước đó),xem bàiHành chính Việt Nam thời Nguyễn), rồi hợp quân với đạo Tiền Giang (tức đạo binh Tân Châu).[37]
  • Đạo binh thứ 3, dự kiến tiến sang Cao Miên từ phủTây Ninhtỉnh Gia Định, do các quan tỉnh này làNguyễn Công NhànCao Hữu Dực chỉ huy. Tuy nhiên đạo này không tiến binh ngay, mà phải tới tháng 8 âm lịch (1845), khi 2 đạo trên đã bình định xong phủ Nam Ninh, thì đạo này (do Công Nhàn lĩnh, Hữu Dực ở lại Tây Ninh) mới tiến sang Cao Miên hợp quân đánh đồn Thiết Thằng.

Diễn biến

[sửa |sửa mã nguồn]
Các địa danh Nam Kỳ và Cao Miên (Trấn Tây) gọi theo cách gọi của người Việt: Thông Bình (Thong bigne F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lô An (Lou-an), La Kiết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to).

Tháng 6 âm, Doãn Uẩn cùng lãnh binh Định Tường là Nguyễn Sáng đem quân từ đồn Thông Bình (nay thuộc xãThông Bình huyệnTân Hồng tỉnhĐồng Tháp) tiến sangCao Miên qua ngả huyện Nam Thịnh (tức phủ Ba Nam cũ) thuộc phủ Nam Ninh (theo đường sông nhánh của sông Tiền Giang và dọcquốc lộ 1 (Campuchia) ngày nay), hạ ngay được hai đồn Thị Đam[37] (nay khoảng xãCheang Daekhuyện Kampong Trabaek), Vịnh Bích (khoảngthị trấn Kampong Trabaek huyện Kampong Trabaektỉnh Prey Veng). Sau đó, Doãn Uẩn tiến tới đóng ở Gò Bắc (nay khoảng các xãKansoam Ak,Kou Khchak huyện Kampong Trabaek hay làng (phum) Beng Pasré huyệnBa Phnum), phía trước là xứ Kha Đốc (khoảng làng Beng Pasré hay xãSdau Kaong huyện Ba Phnum) có đồn Kha Đốc do các tướng của liên quân Xiêm-Lạp tên là Bang và Mạt trấn giữ. Quân Xiêm-Lạp từ đồn Kha Đốc phía thượng lưu (sông nhánh) theo dọc sông tiến xuống bắn bị thương viên vệ úy Trần Tri. Uẩn và Sáng thúc quân đánh phản công, quân Xiêm-Lạp bỏ đồn Kha Đốc rút chạy, quân nhà Nguyễn chiếm được đồn Kha Đốc.

Đồng thời với Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng cũng từ đồn Tân Châu (nay thuộcTân ChâuAn Giang) tiến đến Tầm Bôn (thuộc huyện Phù Nam phủ Nam Ninh Trấn Tây, nay là khoảng xãPreaek Sambuor thuộchuyện Peam Chor tỉnh Prey Veng), quân Xiêm Lạp xuôi theo sông Tiền bắn ra, Hoàng cùng Hồ Đức Tú (lãnh binh An Giang) và Lê Đình Lý (phó lãnh binh Vĩnh Long), tiến đánh thu được Tàm Bôn và ngược dòng sông Tiền tiến về đồn Ba Nam (phumi Ba Nam). Nguyễn Văn Hoàng tiến quân hạ được đồn Ba Nam (Phumi Ba Nam, ở Neak Loeang trên ngã tư giao cắt giữa Quốc lộ số 1 (Campuchia) với sông Tiền Giang), Nguyễn Văn Hoàng liền chiêu an vỗ về dân chúng Cao Miên, và thám sát biết được rằng: quân Xiêm-Lạp do các tướngCao La Hâm (tiếng Thái: สมุห กลาโหม, S̄muh̄ klāh̄om, Samuha Kalahom, Bộ trưởng bộ Quốc phòng[38]),Mộc Xá Na Lăng nắm, đã xây dựng ở phía thượng lưu sông Tiền Giang một phòng tuyến quanh đồn Thiết Thằng[39] (dọc bờ sông và chặn ngang sông tại đồn Thiết Thằng) án ngữ trên bờ sông Tiền chặn đường tiến tới Nam Vang. Hoàng sai Hồ Đức Tú đánh hạ được đồn ngoài rìa (phía hạ lưu Thiết Thằng) của phòng tuyến trên sông này. (Phòng tuyến Thiết Thằng (tiếng Khmer:បន្ទាយ ដែក,Banteay Daek) nằm khoảng 2 bờ sông Tiền Giang (Mê Kông) nay thuộc khoảng 2 huyệnKien Svay hayLvea Aemtỉnh Kandal).

Ngày 14 tháng 6 âm nămẤt Tỵ (tức18 tháng 7 năm 1845[40]), Doãn Uẩn tiến đánh đồn Sách Sô (nay là Phumi Khsach Sa thuộc khoảng các xãRoung Damrei,Reaks Chey huyệnBa Phnum) ở chi lưu sông Sách Sô (sông Preaek Say Sos, nối vớisông Preaek Banam ở xãBanlich Prasat). Quân Cao Miên ở chi lưu sông Sách Sô (vùng Sách Sô thuộc huyện Nam Thịnh phủ Nam Ninh Trấn Tây[41]) kết bè mảng trên sông, đào hầm hố dựng lũy để chống quân nhà Nguyễn. Cánh quân của Doãn Uẩn đang đánh đồn Sách Sô, liền đến đóng đồn ở Bang Chích (khoảng xãBanlich Prasat huyệnPeam Rotỉnh Prey Veng ngày nay), rồi sai các phó cơ Nguyễn Khoa, Nguyễn Hữu Mỹ đem 400 quân hội với đạo quân ở sông Tiền Giang của Nguyễn Văn Hoàng.[42] TheoNgoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Ngày 14 tháng 6, công phá đầm lũy giặc ở Sách Sô...(Sách Sô tức là thượng du của phủ Nam Ninh, phía trước có đầm lớn, đảng giặc đã đắp lũy từ trước ở ven đầm, hai lớp trong ngoài dài hơn ngàn trượng. Tất chúng tử thủ. Ta chia binh làm hai đạo: lãnh binh binh Hồ Đức Tú và phó lãnh binh Lê Đình Lý cầm một ngàn binh từ phủ Tẩu Đà tiến vào, ta cùng lãnh binh Nguyễn Sáng dẫn hơn ngàn quân từ Ích Đà tiến vào. Bọn giặc dựa vào lũy đông như kiến, bắn ra. Ta thân đốc hai đạo quan binh oanh kích bằng pháo lớn. Ai nấy dũng cảm hăng hái,lên trước bạt lũy, đâm chết nhiều tên. Đảng giặc tan vỡ, vào rừng chống giữ. Quan binh liền đóng đồn trấn giữ ở Sách Sô."

Trong lúc đó, quân Xiêm La-Cao Miên lại vòng xuống quấy rối các đồn Vịnh Bích, Kha Đốc. Doãn Uẩn sai Trần Tri và Trương Lý đem quân chống giữ, rồi gửi thư xin viện binh cho Nguyễn Tri Phương. Đồng thời Uẩn tiến quân tới ngã ba sông Trà Mạt (còn gọi là ngã ba Ba Mi,[43] nay khoảng phía nam xãPeam Mean Chey huyện Peam Ro), để hội quân với Nguyễn Văn Hoàng. Hoàng điều Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý cùng 1000 quân theo Doãn Uẩn, còn mình lại về đánh mặt đồn Ba Nam. Hôm sau, Doãn Uẩn chia quân làm hai đạo tiến đánh Sách Sô: Doãn Uẩn, Nguyễn Sáng đánh mặt phải, mặt trái là Hồ Đức Tú vàLê Đình Lý. Hồ Đức Tú thúc quân lên bờ đánh thành, Doãn Uẩn kéo quân lội qua sông, ra mặt trước thành, bắn giết được một tướng Xiêm và hơn trăm quân đối phương. Lê Đình Lý bắn chết một tướng Xiêm. Cánh hữu, Nguyễn Sáng bắn trúng 10 quân Cao Miên và 20 quân Xiêm La. Hạ được đồn Sách Sô, Doãn Uẩn cho Hồ Đức Tú về đồn Ba Nam, và định rút quân ở 5 đồn Thị Đam (Cheang Daek), Vịnh Bích (Kampong Trabaek), Gò Bắc (Kansoam Ak), Kha Đốc (Sdau Kaong), và Bang Chích (Banlich Prasat) về tập trung đồn Sách Sô (Phumi Khsach Sa) để binh lực thêm hùng hậu, nên gửi thư về cho Nguyễn Tri Phương. Tri Phương không nhất trí, đưa thư đáp rằng nên tạm để quân tại các đồn đó để canh phòng.

Ở Nam Kỳ,Võ Văn Giải (hậu quân đô thống) vàTôn Thất Bạch (binh bộ thượng thư) đến An Giang, phân choNguyễn Tri Phương,Tôn Thất Nghị đem thuyền chở quân đến quân thứ Ba Nam, tăng cường cho Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng. Khi Tri Phương chưa tới, ngày 26 tháng 6 âm, 5000 quân Xiêm Lạp đến vây đạo quân của Doãn Uẩn ở đồn Sách Sô. Doãn Uẩn sai Lê Viên (quản cơ), Hồ Đức Tú, Nguyễn Sáng, đem binh chống giữ, bắn giết được tướng Xiêm, làm quân Xiêm Lạp tan vỡ.

Được tin thắng trận, vua Thiệu Trị khen ngợi các tướng sĩ hai đạo binh Doãn Uẩn, Nguyễn Văn Hoàng, đồng thời dụ Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch rằng: cần đốc thúc 2 đao quân tiến nhanh tới hạ thànhNam Vang, và yêu cầu đạo binh thứ 3 theo kế hoạch ban đầu ở Tây Ninh dưới quyền Nguyễn Công Nhàn và Cao Hữu Dực, lúc đó vẫn chưa tiến sang Cao Miên, phải tiến sang Ba Nam hội quân.

Tháng 7 âm, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Nghị cùng viện binh đến được Ba Nam. Nguyễn Tri Phương sai quân chiêu dụ dân chúng Cao Miên, nhưng dân bị quân của Ang Duong kiềm tỏa không chịu theo ra. Thượng lưu dọc sông Tiền thuộc Ba Nam, quân Xiêm lập đồn lũychạy ngang đến Thiết Thằng (quân Xiêm dùng xích sắt chắn ngang sông), bảo vệ Nam Vang. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng muốn nhanh chia đường tiến đánh Thiết Thằng, nhưng Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch cho rằng chưa nên đánh vì quân chưa hội đủ, dân Miên theo về chưa nhiều. Quan quân tâu về triều, vua dụ rằng cần phải tốc chiến tốc thắng (chỉ dụ của vua đến quân thứ ngày 22 tháng 7 âm). Trong khi đó, quân Xiêm lại quấy nhiễu đồn Sách Sô, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn dẫn 1000 quân ra đánh dẹp, quân Xiêm thua chạy.[44]

Ngày 6 tháng 8 âm[45] (7 tháng 9 năm 1845), tại quân thứ Ba Nam, Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn chia đường tiến đánh Thiết Thằng (đồn sắt, បន្ទាយ ដែក,Banteay Daek): Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Nghị dẫn 3000 quân, Doãn Uẩn và Nguyễn Văn Hoàng đem 2000 quân, 2 đạo đều tiến theo đường thủy sông Tiền Giang (Mê Kông) và có thổ dân Cao Miên dẫn đường. Quân Xiêm-Lạp hai bên bờ bắn ra đánh chặn, 2 đạo quân nhà Nguyễn hợp lại đồng loạt tấn công. Các tướng lĩnh Hồ Đức Tú, Lê Đình Lý, Hồ Hậu, Nguyễn Công Nhàn đều hăng hái lập công. Quân Việt tiêu diệt được 1 đại tướng của Xiêm cùng 600 quân Xiêm-Lạp (gồm cả người Xiêm, người Miên, người Lào, người Hoa), và thu được rất nhiều thuyền bè súng ống. Quân Việt chết một tướng là Trương Lý. Quân Xiêm của Chất Tri thua chạy bỏ đồn lũy rút về Nam Vang. Nhân đà thắng, quân Việt tiến thẳng đến Nam Vang, mất phòng tuyến Thiết Thằng (ngày 12 tháng 8 âm[45] tức 11 tháng 9 năm 1845), đại quân Xiêm-Lạp của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun, Ang Duong) rút lui khỏi Nam Vang vào ban đêm, chạy về phíaOudong cố thủ.[46] Doãn Uẩn nói về đồn Thiết Thằng như sau: "Năm Thiệu Trị thứ nhất,... Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) và Nặc Ông Đôn (tức Ông Giun,Ang Duong) chiếm Trấn Tây đã phá thành cũ, xây thành mới bằng gạch ở thượng lưu dài hơn trăn trượng. Lại đặt đồn lũy ở hai bên sông hạ lưuSa An của Hậu Giang và Hách Chử của Tiền Giang, mà đồn Tiền Giang là kiên cố nhất, tả hữu đắp liền ba đồn, rào lũy dày đặc, đắp núi đất cao lên, bố trí nhiều hồng y đại pháo,lại làm khóa sắt ngang sông, tự coi là thế hiểm kiếm các, kiên cố không thể phá vỡ, cho nên gọi là Thiết Lũy, còn gọi là đồn Thiết Thằng."

Thu được thành Nam Vang (Phnom Penh), vua Thiệu Trị khen thưởng và thăng chức cho tướng sĩ quân Việt đánh Xiêm-Lạp, Nguyễn Văn Chương được thăng Hiệp biện đại học sĩ, Doãn Uẩn được thăng quyền thượng thư bộ Binh, các tướng bên dưới đều được thăng cấp và khen thưởng. Vua dụ Nguyễn Văn Chương (Tri Phương) và Doãn Uẩn đem quân tiến gấp tới bến Vĩnh Long (Kampong Luong, trên bờ sôngTonlé Sap, nay là xãKampong Luong huyệnPonhea Leutỉnh Kandal) truy kích quân Xiêm-Lạp. Vua sai Vũ Văn Giải, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Văn Hoàng đi chiêu an dân chúng, ổn định đất Trấn Tây mới lấy lại. Vua điều binh từNam Kỳ tăng cường cho Trấn Tây, lấy quân từ các tỉnhTrung Kỳ kể từ kinh đôHuế trở vào bổ sung cho Nam Kỳ. Vũ Văn Giải (cuối tháng 8 đến được Trấn Tây) tâu xin tạm lậpNặc Ong Bướm (tức Ang Bhim, con của Ong Yêm (tức Ang Im, hay Ang Em)) lên ngôi vương, nhưng Thiệu Trị chưa thuận,[47] vì đang cân nhắc giữa Bướm và Ngọc Vân (Ang Mey) con gái của vua Ông Chân (Ang Chan II). Dân Cao Miên về theo nhà Nguyễn khoảng 23000 người, các tướng người Cao Miên là Ốc Nha Sô Phì và Lịch Bồn Nha Trắc cũng kéo quân Miên ra hàng.

Tháng 9 âm năm 1845, Võ Văn Giải, Tôn Thất Bạch báo cáo cho Thiệu Trị về tình hình Trấn Tây rằng: hoàng thân Cao Miên là Ông Giun (Ang Duong) và tướng Xiêm là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) lúc đó đang tụ tập tại vùng Vĩnh Long (Kampong Luong) và đô thành Oudong. Quân nhà Nguyễn do Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đang ngược theo đường sông Tonlé Sap tiến về phía bến Vĩnh Long truy kích quân Xiêm-Lạp. Còn Giải cùng Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang ổn định tình hình. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn tiến đánh đến bến Vĩnh Long, quân Xiêm hai bên bờ sông bắn ra ác liệt, quân Việt không thể tiến lên bờ được. Thiệu Trị liền lệnh cho Võ Văn Giải mang quân từ Nam Vang lên tăng cường đánh Oudong (để Bạch và Hoàng ở lại Nam Vang).

Vũ Văn Giải chưa tới nơi, thì Tri Phương đã cùng Hồ Đức Tú, Nguyễn Công Nhàn bỏ thuyền lên bộ, còn để lại Doãn Uẩn giữ thủy trại và đánh yểm hộ. Quân Xiêm bi vỡ trận, thua chạy rút về giữ thành Ô Đông (tứcOudong), ở phía Tây Nam bến Vĩnh Long. Thiệu Trị dụ quân tướng Việt ở Trấn Tây rằng cần phải bao vây quân Xiêm-Lạp tại Oudong (Oudong Meanchey), không cho quân Xiêm của Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) rút về Bắc Tầm Bôn (tứcBattambang), để rồi tiêu diệt (Kampong Luong nằm ở vùng đất chắn giữa Oudong và Battambang). Thiệu Trị thăng chức cho các tướng nhà Nguyễn ở Trấn Tây: Võ Văn Giải làm Tiền quân Đô Thống kiêm Phủ biên tướng quân quản hạt Trấn Tây (chức của Trương Minh Giảng trước đó), Nguyễn Tri Phương làm Hiệp biện Đại học sĩ kiêm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Bạch làm Tổng đốc An Giang, Doãn Uẩn làm Thượng thư Bộ Binh kiêm Tham tán đại thần Trấn Tây.[48] Thiệu Trị sai Nguyễn Lương Nhàn (tuần phủHà Tiên) đem 1000 quân cùng nhiều súng thần công lớn, đến huyện Khai Biên phủ Quảng Biên (tứcKampot ngày nay) chiêu an dân chúng và tuyển mộ người Cao Miên dẫn quân tiến đến phủ Hải Tây (nay làtỉnh Pursat), phía Tây Bắc của Ô Đông (Oudong Meanchey) để kép chặt vòng vây.

Bị vây chặt trong thành Oudong, cuối tháng 9, Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) gửi thư sang phía quân Việt xin cầu hòa 2, 3 lần. Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương (Tri Phương), Doãn Uẩn tạm đình chiến, giữ nguyên vòng vây không tiến đánh, đồng thời báo cáo về triều đình Huế, và cho quân Xiêm một hẹn ước hòa đàm.

Tháng 10 âm lịch, đến thời hạn hẹn ước hòa đàm, quân Xiêm sai hẹn không đến mà vẫn cố thủ giữ thành Oudong, quân Việt từ ngoại thành liền tiến đánh Oudong. Nguyễn Tri Phương từ mặt sông Tầm Nạp (nay khoảng bờ sông xãSamraong huyện Ponhea Leu, phía hạ lưu sông Tonlé Sap, tức phía Đông Nam Oudong) tiến vào, Doãn Uẩn từ mặt sông Vĩnh Long (Kampong Luong, phía thượng lưu sông Tonlé Sáp, tức mặt Đông Bắc Oudong) tiến đánh Oudong. TheoNgoại Lãng tướng công niên biểu của Doãn Uẩn: "Sau đó (tức là sau khi đưa thư xin hòa), Chất Tri và Sá Ông Đôn (Ang Duong) trì hồi quá hạn. Ngày 28 tháng 9 (âm, tức 28-10-1845), [quân Việt] lại chia binh tiến công ở Vĩnh Long (Kampong Luong). Binh đạo Khâm sai (tứcNguyễn Văn Chương) đánh đường hữu lộ của chúng. Binh đạo Tham tán (tức Doãn Uẩn) đánh đường tả lộ của chúng.""... Hơn hai tuần (khoảng hơn 20 ngày), quân ta tiến đánh lũy giặc, chỉ hơn 20 trận. Ngày 20 tháng mười (âm tức 19-11-1845), đảng giặc ở trên lũy (thành Ô Đông) xin quan quân ngừng đánh đồn phóng pháo, để Chất Tri phái người đến quân thứ xin hòa. Vài ngày sau đó, [Nguyễn Văn Chương và Doãn Uẩn] mới tiếp tục phát gửi tờ tâu đệ tiền kỳ. Trong bản tâu cóchâu phê (lời vua): Giặc Xiêm thế cùng lực kiệt, vẫy đuôi xin tha, khẩu thỉnh cầu hòa, chẳng phải là không có kế hoãn binh. Mà xem thế chúng, ta đánh thì tất thắng, giữ thì khó, nên sắp xếp thế nào để được thể? Nội trị được vĩnh ninh, biên cương ngoại yên, nhiếp phục được ngoại di. Giao cho các đại thần mau chóng bàn bạc tâu lên. Khâm thử!""Các đại thần văn võ họp bàn, thấy rằng đương lúc này binh uy vang động. Ta đã chiếm thế thượng phong. Hãy tạm hòa với chúng. Cho quân dân được tạm nghỉ sức, thì cũng chẳng đến nỗi không là thượng sách."

Theo Đại Nam thực lục: Tháng 11 (ngày 1-11âm lịch là ngày 29-11-1845), mùa đông, năm Thiệu Trị thứ 5, Ất Tỵ (1845), Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng bàn tính, cho rằng Ô Đông tuy là cái cô thành, nhưng địa thế rất hiểm, lũy sách còn nhiều, Chất Tri và tên Giun dựa lẫn nhau, tất không chịu bỏ, thì đánh không biết đến bao giờ xong việc! Mà đánh để lấy thành, không bằng đánh bằng cách thu phục lòng người, xong việc quân cũng là xong việc nước. Chi bằng tạm cho xin hòa, để có thể thư sức dân quân.

Hậu quả

[sửa |sửa mã nguồn]
Lãnh thổ Nam Kỳ lục tỉnh sau cuộc chiến chính thức thuộc về nhà Nguyễn cho đến năm 1862, cùng vương quốc Cao Miên trước năm 1863.

Tháng 9 âm lịch năm 1845,Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng 11 âm lịch nămẤt Mùi (tức cuối tháng 11 đầu tháng 12 dương lịch năm 1845) thì Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng Chất Tri (Bodindecha) và Ang Duong ký tờ hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây (Nam Vang), đợi quân Xiêm thi hành những điều ước đã định. Doãn Uẩn viết trong Ngoại Lãng tướng công niên biểu: "Ngày mồng 3 tháng mười một, Chất tri dẫn bộ lạc đến quân thứ và dẫn Man tù Sá Ông Đon đến quân thứ thú tội. Sá Ông Đôn tiếp đó lại có thư thỉnh tội, xin giúp đề đạt. Trước đây, Chất tri đã ủy lệnh cho đại đầu mục Xiêm là Phiya Ta-sơ-tê-côn là quan nhất phẩm của Xiêm, Sá na lăng là quan tam phẩm của Xiêm, đến trước quân [Việt] nói rằng sẽ phái người thông thuyết, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng, thông dịch không thể đạt ý, này Chất Tri xin dẫn hết bộ lạc tự mình đến thuyết hòa, mới được rõ ràng, lại xin dẫn Sá Ông Đon và các thổ mục đương diện tạ tội. Ta cùng Khâm sai bàn nhau: Binh pháp nói rằng "bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện; bất chiến nhi khuất nhân binh, viễn vi thiện chi thiện" (trăm đánh trăm thắng không phải là hay nhất trong mọi cái hay; không đánh mà khuất phục được quân của người, mới là hay nhất trong mọi cái hay). Nay dẫu có thể đuổi dài lên bắc, chúng tất thua, nhưng mai kia vị tất chúng chẳng có mưu đồ rửa nhục, chi bằng hẵng cho chúng hòa, để được yên việc, bèn sức cho làm một sớ hội xá, hai bên gặp nhau."[49]Đại Nam thực lục chép: "Ngày Tân Dậu.[50],..., Quan ở quân thứ Vĩnh Long là Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn cùng đầu mục nước Xiêm là Chất Tri ước hòa ở hội quán. Bọn Phương bèn..., đem việc ấy tâu lên. Vua xem tờ tấu,..., Sau đó Chất Tri lại cho người đến ước hội. Đến giờ Tỵ ngày hôm ấy, Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn chỉnh đốn nghi vệ quân đội ra đi. Khi sắp đến hội quán, (người Xiêm đã làm nhà lợp tranh trước ở giữa đường), đã thấy Chất Tri xuống voi, đi chân không, bỏ hết nhạc Man. Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn từ cửa tả vào, vái chào, rồi lên ngồi nhà chính. Chất Tri ngồi bên hữu, quân tướng đều im lặng nghiêm trang. Khi an tọa, Tri Phương trước hết hỏi đến cái cớ sao không nhận được thư đáp. Chất Tri nói: Vì ngôn ngữ bất đồng, sợ dịch sai, nên chưa dám viết. Nhân đó Chất Tri đưa thư ra, đại ý thư viết: họ đến họp để xin gây lại tình hòa hiếu cũ, và cho Ong Giun được làm bề tôi hai nước. Rồi ông ta trỏ tay vào người quỳ bên và nói: "Đây là Nặc Ong Giun, xin ủy thác cho làm việc ở nước ngài, nhờ ngài thương cho"... Tri Phương, Doãn Uẩn lại hỏi Chất Tri: "Nay việc nghị hòa đã xong,Chau Phi Nhã bao giờ thì lui vềBắc Tầm Bôn?". Chất Tri nói: "Hắn đã thua ở Thiết Thằng, bỏNam Vang lui về Ô Đông, tự mang cái tội thua trận, không thể chối được: nếu vội bỏ Ô Đông mà về, thì không khỏi mang tội với nước Xiêm, xin tạm cho ở đây, đợi thư của nướcXiêm đến, rồi sẽ lui quân...[51],...". Ngày Tân Dậu (4 tháng 11 âm), là ngày2 tháng 12 năm 1845[40] (Sự chậm một ngày có lẽ là thời gian liên lạc ngựa trạm công văn trình tấu và châu phê giữa chiến trường và triều đình Huế).

Tháng chạp nămBính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống, nhìn nhận sự bảo hộ song phương của Xiêm và Việt Nam. Tháng 2 âm lịch nămĐinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương (ý trao cho làm chủ toàn cõi Cao Miên gồm cả Nam Vang lẫn Oudong) và phong cho Ang Mey làm Cao Miên quận chúa (ý trao cho làm chủ vùng Trấn Tây (Nam Vang) nhà Nguyễn kiểm soát). Thiệu Trị lệnh cho quân nhà Nguyễn ở Trấn Tây (vùng Nam Vang đến biên giới với Nam Kỳ của Đại Nam) rút về An Giang.[52] Quân đội Xiêm La do Chất Tri chỉ huy cũng rút vềBattambang (vùng đất Thái Lan chiếm đóng của Campuchia trong suốt thế kỷ 19), Campuchia được độc lập trong vùng lãnh thổ nguyên là đất Trấn Tây giai đoạn (1836-1840), bao gồm cả Nam Vang và Oudong.Biên giớiNam Kỳ Lục tỉnh-Cao Miên, tuy chưa theo phong cách phương Tây hoạch định bằng văn bản hiệp định, nhưng về cơ bản trở về với đường ranh giới vào khoảng đầu năm 1841, khi Trương Minh Giảng rút quân Trấn Tây về An Giang, và trước khi quân Xiêm-Lạp xâm phạm Hà Tiên, An Giang đầu cuộc chiến. Biên giới này tồn tại cho đến sau khi Pháp xâm chiếm và ổn định xong Nam Kỳ, chiếm đóng và bảo hộ Cao Miên, thì được thay thế bởi ranh giới hành chính (nội bộ trongLiên bang Đông Dương) giữa Cao Miên và Nam Kỳ thuộc Pháp được hoạch định bởi hiệp định giữa Pháp và triều đình Cao Miên.

Xứ Cao Miên Campuchia và xứ Nam Kỳ (Cochinchina) thuộc Pháp năm 1876. (Ranh giới Cao Miên-Nam Kỳ trong bản đồ là biên giới trước hiệp định phân định ranh giới Pháp-Cao Miên)

Hòa ước quốc tế giữa ba quốc gia (mà đại diện cho Đại Nam (Việt Nam) làNguyễn Tri PhươngDoãn Uẩn, đại diện cho Cao Miên (Campuchia) là vuaAng Duong, đại diện cho Xiêm La (Thái Lan) làChao Phraya Bodin Decha) quy định phần lãnh thổNam Kỳ Lục tỉnh chính thức thuộc chủ quyền Việt Nam,[53][54] và Campuchia chịu sự bảo hộ song phương của cả Việt Nam lẫn Thái Lan.[55] Sự bảo hộ song phương Việt Nam và Thái Lan lên Campuchia chấm dứt, đối với Việt Nam khiPháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam từ các tỉnhNam Kỳ năm 1862-1867 (và chính thức trongHòa ước Giáp Tuất (1874)), đối với Thái Lan khi Pháp ký hiệp ước bảo bộ đối với Campuchia năm 1863.

Trong văn hóa đại chúng

[sửa |sửa mã nguồn]

TrongPhượng khấu, phim cung đấu Việt Nam, ở phần 1 phát hành năm 2020, dù không trực tiếp tái hiện cuộc chiến tranh Xiêm La - Đại Việt nhưng cuộc chiến này có nhiều ảnh hưởng đến bối cảnh hậu cung của vua Thiệu Trị. Ở tập 6, vua Thiệu Trị đã rút ngắn thời gian Bắc tuần, thị sát đê điều vì nhận được tin phiến quân Chân Lạp hợp quân cùng Xiêm La để quấy rối Trấn Tây thành. Việc đối xử tệ của quan lại Đại Nam và tướng Trương Minh Giảng (dù không xuất hiện trong phim) với người dân Trấn Tây thành cũng được nhắc đến. Một sát thủ gốc Xiêm La được hoàng tửHồng Bảo thuê để ám sát công chúaTĩnh Hảo, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến quan hệ Đại Nam - Xiêm La trở nên xấu đi trong phim. Ở tập 9, vua Thiệu Trị xem tấu sớ của các tướng trấn thủ Miền Nam gởi về và tuyên bố rằng cuộc chiến giữa Đại Nam và Xiêm La là điều khó tránh được.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abcdefghijklmnopqrstuvwxyzaaabacadaeafagahaiajakalamanaoapaqChao Phraya Thipakorawong (1938).พระราชพงศาวดาร กรุงรัตนโกสินทร์ รัชชกาลที่ ๓. (phát hành sau khi mất)
  2. ^abcKiernan, Ben (17 February 2017).Viet Nam: A History from Earliest Times to the Present. Oxford University Press. tr. 283–.ISBN 978-0-19-062729-4.{{Chú thích sách}}:Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:|date= (trợ giúp);line feed character trong|date= tại ký tự số 3 (trợ giúp)
  3. ^Schliesinger, Joachim (2017).The Chong People: A Pearic-Speaking Group of Southeastern Thailand and Their Kin in the Region. Booksmango. tr. 106–.ISBN 978-1-63323-988-3.
  4. ^Childs Kohn, George (2013)."Siamese-Vietnamese War of 1841–45".Dictionary of Wars. Taylor & Francis. tr. 646–.ISBN 978-1-135-95501-4.{{Chú thích bách khoa toàn thư}}:line feed character trong|publisher= tại ký tự số 7 (trợ giúp)
  5. ^Hirakawa, Sachiko (2004)."Siamese-Vietnamese Wars". Trong Bradford, James C. (biên tập).International Encyclopedia of Military History. Routledge. tr. 1235–.ISBN 978-1-135-95034-7.
  6. ^abcVũ Đức Liêm."Vietnam at the Khmer Frontier: Boundary Politics, 1802–1847"(PDF). Hanoi National University of Education. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
  7. ^abWoodside, Alexander (1988).Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Council on East Asian Studies, Harvard University.
  8. ^abcdefWyatt, David K. (2003).Thailand: A Short History (ấn bản thứ 2). Yale University Press.
  9. ^abcdeChandler, David P. (ngày 26 tháng 5 năm 1971). "Cambodia's Relation with Siam in the Early Bangkok Period: The Politics of a Tributary State".Journal of the Siam Society.
  10. ^abcdRungswasdisab, Puangthong (1995). "War and Trade: Siamese Interventions in Cambodia; 1767-1851".University of Wollongong Thesis Collection.
  11. ^abcdefghijklmnopqrstuvwxyBun Srun Theam (1981).Cambodia in the Mid-Nineteenth Century: A Quest for Survival, 1840-1863(PDF) (MA). Canberra: Australian National University. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
  12. ^abVo, Nghia M. (2011).Saigon: A History. McFarland, Incorporated, Publishers.
  13. ^Ramsay, Jacob (2008).Mandarins and Martyrs: The Church and the Nguyen Dynasty in Early Nineteenth-Century Vietnam. Stanford University Press.
  14. ^abcdefA. Dirk Moses (2008).Empire, Colony, Genocide, Conquest, Occupation, and Subaltern Resistance in World History. Berghahn Books.ISBN 9781782382140.
  15. ^abcdJacobsen, Trudy (2008).Lost Goddesses: The Denial of Female Power in Cambodian History. NIAS Press.
  16. ^Corfield, Justin (2009).The History of Cambodia. ABC-CLIO.
  17. ^abcdefghijklCao Xuân Dục (1908).Quốc triều chính biên toát yếu (國朝正編撮要)(PDF).
  18. ^Alexander Barton Woodside (2020).Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Brill.ISBN 9781684172788.
  19. ^abcdefghde Lagrée, Ernest Doudart (1883).Explorations et missions Cambodge (bằng tiếng Pháp). Tremblay.
  20. ^"The Ancient Site Of Noen Wong Fortress".Tourism Thailand.
  21. ^Bacon, George B. (1892).Siam : The Land of the White Elephant as It Was and Is.
  22. ^abcCooke, Nola; Li, Tana (2004).Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880. Singapore University Press.
  23. ^abcdefghจดหมายเหตุเรื่องทัพญวน ครั้งรัชชกาลที่ ๓ จดหมายและใบบอกในปีชวดโทศกจุลศักราช ๑๒๐๒ (พ.ศ. ๒๓๘๓) (bằng tiếng Thái). 1933.
  24. ^abcdChandler, David (2018).A History of Cambodia. Taylor & Francis.ISBN 9780429975141.
  25. ^Kitagawa, Takako (ngày 4 tháng 3 năm 2005)."Kampot of the Belle Époque: From the Outlet of Cambodia to a Colonial Resort"(PDF).Southeast Asian Studies, Kyoto University.
  26. ^abcdefghijklmnopqrstuvwxyz"Chính biên – Đệ nhị kỷ Thực lục về Thánh tổ nhân hoàng đế Minh Mạng – quyển 177 – 220".
  27. ^abcประชุมพงศาวดารภาคที่ ๖๘ จดหมายเหตุเกี่ยวกับเขมรและญวนในรัชกาลที่ ๓ ตอนที่ ๒ (bằng tiếng Thái). โรงพิมพ์บำรุงนุกูลกิจ. 1938.
  28. ^Kiernan, Ben (2017).Viet Nam: A History from Earliest Times to the Present. Oxford University Press.ISBN 9780190627294.
  29. ^abcdefghijklmnop"Chính biên – Đệ tam kỷ Thực lục về Hiến tổ chương hoàng đế Thiệu Trị – quyển 01 – 72".
  30. ^Việt Nam sử lược, tr. 47.
  31. ^Lỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênSN
  32. ^Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyễn VII, tập sáu, Thực lục về Hiến tổ Chương hoàng đế, trang 312-313.
  33. ^Theo Sơn Nam thì Sách Sô nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, nhưng Đại Nam thực lục thì viết rằng:Sách Sô thuộc địa hạt huyện Nam Thịnh, phủ Nam Ninh kiêm lý (tức Nam Thịnh thuộc phủ Nam Ninh nhưng có phủ lỵ ở Nam Thịnh),Nam Thịnh là đổi tên từ Ba Nam năm 1840 mà thành. Ba Nam thực tế nằm bên tả sông Tiền, còn sông Hậu thực tế nằm bên bờ hữu sông Tiền.
  34. ^Lược theo Sơn Nam,Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, tr. 91-92.
  35. ^Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 735.
  36. ^Biên giới Việt Nam-Campuchia.
  37. ^abĐại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, tập 6, trang 737.
  38. ^Thực ra đây là Prayurawongse, người trước đó đã cùng Bodin (Chất Tri) tham gia đánh Đại Nam năm 1833. Lúc đó Đại Nam Thực Lục ghi là Phi Nhã Phật Lăng do Prayurawongse làm Bộ trưởng Ngoại giao, tiếng Thái gọi là Krom Phra Khlang. Sau năm 1833,  Prayurawongse được thăng lên tước hiệu Samuha Kalahom (Bộ trưởng Quốc phòng) cho nên sử nhà Nguyễn ghi là Cao La Hâm, dù đây chỉ là một người.
  39. ^Đại Nam thực luc, đệ tam kỷ, quyển XLVIII, trang 741.
  40. ^ab"đối chiếu âm lịch với dương lịch".Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  41. ^Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XXI, tập 6, trang 363.
  42. ^Đại Nam thực lục, quyển XLVIII, trang 742.
  43. ^Trong cuốnTrấn Tây kỷ lược,Doãn Uẩn viết: "Xứ ngã ba Ba Mi có dòng sông nhỏ chảy qua, rồi rẽ ngang sang sông nhánh Ba Nam. Lại một dòng chảy thông sang sông bé Tiền Giang, chảy xuống đến Thông Bình..."
  44. ^Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển XLIX, tập 6, trang 748.
  45. ^abbàiMột số sự kiện về cuộc đời và sự nghiệp của Doãn Uẩn, tác giả Doãn Đoan Trinh, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1(357)/2006, trang 67. ISSN.0866-7497.
  46. ^Đại Nam thực lục, quyển XLIX, trang 759.
  47. ^Đại Nam thực lục, đệ tam kỷ, quyển XLIX, trang 760-761.
  48. ^Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tam kỷ, quyển L, tập 6, trang 765.
  49. ^"Doãn tướng công hoạn tích, Doãn Uẩn, thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu: A.192:243 tr, 32 x 22. và A.2177: 316 tr, 28 x 17".Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2014.
  50. ^Đại Nam thực lục chính biên, trang 785, tập 6.
  51. ^Đại Nam thực lục chính biên, trang 788, tập 6.
  52. ^Việt Nam sử lược, tr. 477-468.
  53. ^"Chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ (GS.TSKH Vũ Minh Giang)".Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2015.
  54. ^Các hiệp định biên giới Việt Nam – Campuchia thời Pháp thuộc và vấn đề cơ sở chính trị - pháp lý của đường biên giới Việt Nam – Campuchia, cổng điện tử Cà Mau, Nguyễn Sỹ Tuấn đăng ngày 01/10/2014.
  55. ^(bằng tiếng Pháp) Michel Blanchard,Vietnam-Cambodge: Une frontière contestée, chap. III (« Les données historiques: de la limite territoriale au tracé frontalier »), p. 33–43
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chiến_tranh_Việt_–_Xiêm_(1841–1845)&oldid=74528756
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp