Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Chiến tranh ủy nhiệm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cố vấn quân sự Liên Xô lênkế hoạchhành động trongcuộc Nội chiến Angola
Bài viết này thuộc loạt bài về
Chiến tranh








Chiến tranh ủy nhiệm hayChiến tranh đại lý là một cuộc xung đột vũ trang giữa hai quốc gia hoặc các chủ thể phi quốc gia hoạt động vì sự xúi giục hoặc nhân danhtrung lập các bên khác không liên quan trực tiếp đến chiến sự.[1] Để một cuộc xung đột được coi là một cuộc chiến ủy nhiệm, phải có mốiquan hệ trực tiếp, lâu dài giữa các tác nhân bên ngoài và những người hiếu chiến có liên quan.[2] Mối quan hệ đã nói ở trên thường có các hình thức tài trợ, huấn luyện quân sự, vũ khí hoặc các hình thức hỗ trợ vật chất khác giúp các bên duy trì nỗ lực cho cuộc chiến tranh của mình.[cần dẫn nguồn]

Trong thờicổ đạithời Trung cổ, nhiều lực lượng ủy nhiệmphi quốc gia là các lực lượng bên ngoài đã đượcxâm nhập vào một cuộc xung đột trong nước vàliên kết với một lực lượnghiếu chiến nhằm có được ảnh hưởng và tăng thêm các lợi ích của chính họ trongkhu vực.[3][4] Các lực lượng ủy nhiệm có thể được đưa vào do một thế lực bên ngoài hoặc địa phương và thường được sử dụng dưới dạng quân đội bất thường nhằm đạt được mục tiêu của nhà tài trợ trong khu vực tranh chấp. Một số quốc gia thời trung cổ nhưĐế quốc Byzantine đã sử dụng chiến tranh ủy nhiệm như một công cụ chính sách đối ngoại bằng cách cố tình hỗ trợ mưu đồ giữa các đối thủ thù địch và sau đó ủng hộ họ khi họ gây chiến với nhau.[2] Cáctiểu bang khác coi cuộc chiến ủy nhiệm như chỉ đơn thuần là một phần mở rộng hữu ích của một cuộc xung đột tồn tại trước đó, chẳng hạn nhưPhápAnh trongChiến tranh Trăm Năm, cả hai đều bắt đầu một chiêu thức lâu đời bằng việc hỗ trợcướp biển nhắm vàotàubuôn của quốc gia kia.[5]Đế quốc Ottoman cũng sử dụng những cướp biển Barbary được ủy nhiệm để quấy rối các cường quốc Tây Âu ởbiển Địa Trung Hải.[6]

Kể từ đầu thế kỷ XX, các cuộc chiến ủy nhiệm thường được sử dụng dưới dạng các quốc gia đảm nhận vai trò là nhàtài trợ cho các chủ thể phinhà nước, về cơ bản sử dụng chúng như các lực lượng thứ năm để làm suy yếu sức mạnh đối nghịch.[2] Loại chiến tranh ủy nhiệm này bao gồm hỗ trợ từ bên ngoài cho một phe tham gia vào cuộcnội chiến, khủng bố,các phong trào giải phóng dân tộc và các nhóm nổi dậy, hoặc hỗ trợ cho một cuộc nổi dậy quốc gia chống lại sự chiếm đóng của nước ngoài. Ví dụ,người Anh đã tổ chức một phần và xúi giục cuộc nổi dậyẢ Rập nhằm phá hoại Đế chế Ottoman trongThế chiến thứ nhất.[3] Nhiều cuộc chiến ủy nhiệm bắt đầu có màu sắc ý thức hệ đặc biệt sauNội chiến Tây Ban Nha, trong đó đưa các tư tưởng chính trịphát xít của Ý và hệ tư tưởngquốc gia xã hội củaĐức Quốc xã chống lại hệ tư tưởngcộng sản củaLiên Xô mà không phải đối đầu trực tiếp với nhau.[7] Nhà tài trợ của cả hai bên cũng sử dụng cuộc xung đột Tây Ban Nha như một mặt trận chứng minh cho vũ khí và chiến thuật chiến trường của riêng họ.

Trong Chiến tranh Lạnh, chiến tranh ủy nhiệm được thúc đẩy bởi lo ngại rằng một cuộc chiến tranh thông thường giữaHoa KỳLiên Xô sẽ dẫn đếnthảm sát hạt nhân, khiến việc sử dụng các ủy nhiệmtư tưởng trở thành một cách an toàn hơn để thực hiện chiến sự.[8]Chính phủ Liên Xô phát hiện ra rằng hỗ trợ cáclực lượng đối kháng với Mỹ và các quốc gia phương Tây là một cách hiệu quả về mặt chi phí để chống lại ảnh hưởngcủa NATO thay cho sự tham gia quân sự trực tiếp.[9] Ngoài ra, sự phổ biến của truyền thông truyền hình và tác động của nó đối với nhận thức của công chúng khiến công chúng Hoa Kỳ đặc biệt dễ bị mệt mỏi vì chiến tranh và hoài nghi về nguy cơ cuộc sống của người Mỹ ở nước ngoài.[10] Điều này khuyến khích thực tiễn của Mỹ đối với các lực lượng nổi dậy vũ trang, chẳng hạn như việc cung cấp các nguồn cung cấp cho lực lượngchống cộngmujahideen trongChiến tranh Afghanistan từ năm 1978 đến năm 1992 củaLiên Xô.[11]

ÔngTrần Đức Thảo (mộttriết giacánh tảngười Việt Nam) nhận xét về bản chất thật của tất cả những cuộc chiến tranh ủy nhiệm trongChiến tranh Lạnh (1947-1991):

Các nước lớn đã chơi trò dựng lên nhữngý thức, nhữnglý tưởng, nhữngtâm lý phân biệt hệchính trị, phân biệtbiên giớiđịa lý, đi duy trì sự chia rẽ trong đầu thằng dân nhược tiểu một cách lâu dài, để phe này kiên trì cầm súng bắn giết phe kia, để nuôi dưỡng chiến tranh cục bộ.

Bức tườngtâm lý có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất chính là bức tườngý thức hệ. Bức tường này đã chia làm haithế giới: một bên là ý thức hệxã hội chủ nghĩa, lấy nguyên tắcMarxistđấu tranh giai cấp làm động lực, bên kia là ý thứctư sản,tư bản, lấy lý tưởngtự dodân chủ làm động lực.

Tất cả cáclãnh thổ bị chia cắt, cácdân tộc bị chia rẽ đều do các nước lớnvũ trang, bằng cảtinh thần lẫnvật chất, để trở thành những ngòi nổ của các cuộcchiến tranh cục bộ, thường là rất đẫm máu.

Thế màlãnh đạo mỗi phe, của mỗi phần lãnh thổ bị chia cắt ấy, cứ khoe tài, khoe trí, cam kết sẽ "đưa dân tộc,đất nước tớichiến thắng!" Đau đớn và mỉa mai nhất là trong lúc các nước nhỏ diễn trò anh em bắn giết nhau, thì lãnh đạo các nước lớn vui vẻ thăm viếng nhau, mở yến tiệc khoản đãi nhau, để tìm cách thông cảm nhau, tránh trực tiếp đụng độ nhau.

Đồng thời họ tiếp tục tuônvũ khí vào các nước nhỏ để nuôichiến tranh. Là mộtnhà triết học như tôi, thì phải tìm hiểu để biết nhìn sâu và xa hơn qua những cuộc chiến tranh cục bộ, huynh đệ như thế. Vì sau khi đã chiến thắng, thì còn lại biết bao đau thương mà người dân, ở cả hai bên chiến tuyến, phải gánh chịu.[12]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Osmańczyk, Jan Edmund (2002).Encyclopedia of the United Nations and International Agreements. Abingdon: Routledge Books. tr. 1869.ISBN 978-0415939201.
  2. ^abcHughes, Geraint (2014).My Enemy's Enemy: Proxy Warfare in International Politics. Brighton: Sussex Academic Press. tr. 5,12–13.ISBN 978-1845196271.
  3. ^abWilliams, Brian Glyn (2012). Innes, Michael (biên tập).Making Sense of Proxy Wars: States, Surrogates & the Use of Force. Washington DC: Potomac Books. tr. 61–63.ISBN 978-1-59797-230-7.
  4. ^Carr, Mike (2016). France, John; Rogers, Clifford; De Vries, Kelly (biên tập).Journal of Medieval Military History, Volume 10. Woodbridge: The Boydell Press. tr. 163–166.ISBN 978-1-78327-130-6.
  5. ^Heebøll-Holm, Thomas (2013).Ports, Piracy and Maritime War: Piracy in the English Channel and the Atlantic, c. 1280-c. 1330. Leiden: Brill. tr. 8.ISBN 978-9004235700.
  6. ^Watson, William (2003).Tricolor and Crescent: France and the Islamic World. Westport, Connecticut: Praeger Books. tr. 17–19.ISBN 978-0275974701.
  7. ^Axelrod, Alan (1997).The Real History of the Cold War: A New Look at the Past. New York: Sterling Publishers. tr. 20.ISBN 978-1402763021.
  8. ^Wilde, Robert. "Mutually Assured Destruction." About Education. About.com, n.d. Web. ngày 23 tháng 4 năm 2015..
  9. ^Prof CJ. "Ep. 0014: Fall of the Soviet Empire." Prof CJ, ngày 21 tháng 7 năm 2014. MP3 file.
  10. ^Curtis, Anthony R. "Mass Media Influence on Society." University of North Carolina at Pembroke, ngày 23 tháng 6 năm 2012. PDF file.
  11. ^The Editors of Encyclopædia Britannica. "Soviet Invasion of Afghanistan." Encyclopædia Britannica. Encyclopædia Britannica, Inc., n.d. Web. ngày 23 tháng 4 năm 2015.<http://www.britannica.com/EBchecked/topic/1499983/Soviet-invasion-of-Afghanistan>.
  12. ^Trần Đức Thảo nghĩ gì về đế quốc và 30/04 ?, BBC Tiếng Việt, 28 tháng 4 2018
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chiến_tranh_ủy_nhiệm&oldid=72037464
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp