Trong khi một số học giả coi chiến tranh là một khía cạnh phổ quát và tổ tiên củabản chất con người,[2] những người khác cho rằng đó là kết quả của hoàn cảnh văn hóa xã hội, kinh tế hoặc sinh thái cụ thể.[3]
Nói tóm lại, chiến tranh là sựxung đột do từ mâu thuẫn ý thức giữa cáctư tưởng khác nhau. Nguyên nhân của những mâu thuẫn này xuất phát từ tham vọng riêng của từngthực thểcon người. Khi những tham vọng này đối chọi nhau đến mức độcăng thẳng cao độ thì chiến tranh xảy ra. Chỉ khi nào tồn tại 2 bên đối nghịch nhau thì chiến tranh mới bùng nổ. Những hình thức chiến tranh đi từ hình thức thô thiển như chiến tranh vũ trang đến thể loại chiến tranh vi tế như sử dụngvăn hóa để công kích.
Tính chất đặc trưng của cácý thức hệ là tìm cáchđồng hóa các ý thức hệ còn lại để còn lại một thể duy nhất. Chiến tranh có thể xem như quá trình đồng hóa các hệ ý tưởng của các bên đối lập nhau. Chiến tranh leo thang là do sự đồng hóa này chưa dừng lại.
Hậu quả của chiến tranh không chỉ có sự hoang tàn mà còn có cả sự tiến bộ. Chiến tranh là thành phần không thể thiếu trong quá trìnhtiến hóa của tất cả cácsinh vật, đoàn thể,tổ chức hầu đạt được mục tiêu sống còn và phát triển.
Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên như là mộttai nạn giao thông. Có thể có các điều kiện, tình huống giống như là sắp xảy ra chiến tranh nhưng người ta không thể tiên đoán đượcthời gian vàđịa điểm xảy ra chiến tranh. Cácnhà xã hội học phê phán cách tiếp cận này, họ cho rằng sự bắt đầu của các cuộc chiến tranh là do một sốnhà lãnh đạo đưa ra, đó không phải làtai nạn thuần túy. Vẫn còn có những bất đồng nhưng thực sự rất khó khăn trong việc xây dựng mộthệ thống tiên đoán về chiến tranh.
Theo thuyết này, chiến tranh xuất phát từtâm lý của con người, cho rằng đó là "bản năngxâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài người đặc biệt làđàn ông sinh ra đã có thói quen xung đột. Thông thường những loạixung đột này bị kìm nén bởixã hội, nó cần một cơ hội để giải thoát các xung đột bằng chiến tranh.
Học giả ngườiAnhThomas Robert Malthus (1766–1834) cho rằng dân số luôn tăng dù chúng bị hạn chế bởi chiến tranh,bệnh tật và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước đây khi mà nềnsản xuất chưaphát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển được. Theo thuyết Malthus thì sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và tăngthức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng theocấp số nhân thì nguồntài nguyên, của cải lại tăng theo cấp số cộng tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ đượcđào tạo, đếntuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sựnổi loạn trong xã hội (bao gồm cả chiến tranh). Theo các học thuyết này "con người cần thức ăn, cần vị trí nên họ bắn nhau".
Chiến tranh là hiện tượng chính trị – xã hội mang tính lịch sử, là hoạt động đấu tranh giữa cácgiai cấp, cácnhà nước, các lực lượng chính trị cóđịa vị, lợi ích đối lập nhau trong một nước hoặc giữa các nước nhằm đạt được mục đíchchính trị nhất định.
Chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp không thể điều hòa. Trong đó, chế độ chiếm hữu tư nhân là nguồn gốc kinh tế – nguồn gốc sâu xa; đối kháng giai cấp là nguồn gốc xã hội – nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh.
Nguyên nhân chung: Là sự tác động giữaphương thức sản xuất bóc lột và những hiện tượng chính trị – xã hội dophương thức sản xuất đó sinh ra dưới hình thức bạo lực vũ trang củagiai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguyên nhân đơn nhất: Là sự tác động có tính đột biến, tức thì từ những nhân tố cá biệt như cá tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức hoặc diễn biến không chuẩn xác của các thông tin, của phương tiện tiến hành chiến tranh,...trong những tình huống nhất định.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chung là cơ bản, xuyên suốt của mọi cuộc chiến tranh trong lịch sử loài người.
Bản chất của chiến tranh thể hiện trên hai mặt cơ bản luôn có sự thống nhất với nhau: Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, bạo lực vũ trang là phương thức, biện pháp để thực hiện mục đích chính trị. Mặt chính trị và mặt phương thức bạo lực vũ trang không tách rời nhau.
Giữa chiến tranh và chính trị có mối quan hệ khắng khít,biện chứng với nhau. Trong đó, chính trị quyết định chiến tranh và chiến tranh tác động to lớn trở lại đối với chính trị. Thực chất, đây là mối quan hệ giữa hai hiện tượng xã hội, mỗi hiện tượng bao gồm lực lượng vật chất và tinh thần, giữa tư tưởng và tổ chức. Đây là mối quan hệ đa chiều.
Giữa chiến tranh và chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Chính trị chỉ đạo, chi phối, quyết định toàn bộ tiến trình và kết cục chiến tranh, quy định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang; sử dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ,mục tiêu mới cho giai cấp, xã hội trên cơ sở những thắng lợi hay thất bại của chiến tranh.
+ Ngược lại chiến tranh là một bộ phận, một phương tiện của chính trị, là kết quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị.
Trong thời đại ngày nay mặc dù chiến tranh có những thay đổi về phương thức tác chiến, vũ khí, trang bị, song bản chất chiến tranh vẫn không có gì thay đổi, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục chính trị của nhà nước và giai cấp nhất định.
Đường lối chính trị của đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn chứa đựng nguy cơ chiến tranh.
Chiến tranh sinh học, hay chiến tranh vi trùng, là việc sử dụng các chất độc sinh học được vũ khí hóa hoặc các tác nhân truyền nhiễm nhưvi khuẩn,virus vànấm.
Chiến tranh hóa học liên quan đến việc sử dụng hóa chất vũ khí trong chiến đấu. Khí độc làmvũ khí hóa học chủ yếu được sử dụng trongThế chiến I, và dẫn đến hơn một triệu thương vong ước tính, bao gồm hơn 100.000 dân thường. [4]
Chiến tranh mạng liên quan đến các hành động của một tổ chức quốc gia hoặc quốc tế để tấn công và cố gắng làm hỏng hệ thống thông tin của quốc gia khác.
Nổi dậy là một cuộc nổi loạn chống lại chính quyền, khi những người tham gia cuộc nổi loạn không được công nhận là người hiếu chiến (chiến binh hợp pháp). Một cuộc nổi dậy có thể được chiến đấu thông qua chiến tranh chống nổi dậy, và cũng có thể bị phản đối bởi các biện pháp bảo vệ dân chúng, và bằng các hành động chính trị và kinh tế thuộc nhiều loại nhằm phá hoại các yêu sách của quân nổi dậy chống lại chế độ đương nhiệm.
Chiến tranh thông tin là ứng dụng của lực phá hoại trên quy mô lớn đối với các tài sản và hệ thống thông tin, chống lại cácmáy tính vàmạng hỗ trợ bốn cơ sở hạ tầng quan trọng (lưới điện, thông tin liên lạc, tài chính và giao thông). [5]
Chiến tranh độc đáo, trái ngược với chiến tranh thông thường, là một nỗ lực để đạt được chiến thắng quân sự thông qua sự thông qua gây sức ép, thủ tiêu lãnh đạo hoặc hỗ trợ bí mật cho một bên của một cuộc xung đột hiện có.
Chiến cuộc là hình thức tác chiếnchiến lược bao gồm một số chiến dịch, chiến dịchchiến lược và các hình thức tác chiến khác diễn ra trongkhông gian rộng (một hoặc một số chiến trường trên bộ và có thể cả trên biển), trong một thời gian tương đối dài (mấy tháng, mấy mùa) nhằm đạt những mục đích quân sự – chính trị của chiến tranh. Chiến cuộc thường được gọi tên theochiến trường (VD:Chiến cuộc Bắc Phi), theothời gian – năm hay mùa diễn ra chiến cuộc (chẳng hạnChiến cuộc Đông Xuân 1953–1954). Chiến cuộc là đối tượng nghiên cứu của chiến lược quân sự.
Chiến dịch là toàn bộ nói chung các trận chiến đấu diễn ra trên một chiến trường và trong một thời gian, tiến hành theo kế hoạch và ý định thống nhất, nhằm thực hiện mục đích chiến lược nhất định. Ví dụ:Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến dịch cũng là toàn bộ nói chung những việc làm tập trung và khẩn trương, tiến hành trong một thời gian nhất định, nhằm thực hiện một mục đích nhất định. Ví dụ:
Vũ khí là những phương tiện được con người sử dụng phục vụ cho chiến tranh, dùng để gây sát thương hay đểtự vệ. Vũ khí cá nhân thường đượcbinh sĩ mang bên người, thay đổi và cải tiến qua các thời kỳ. Từthời tiền sử đến nay, vũ khí chiến tranh cá nhân đã được thay đổi và cải tiến rất nhiều. Đến nay, vũ khí cá nhân đã đạt đến tiến bộ và có hiệu quả cao và đang được cải tiến hiện đại hơn trong tương lai
Xưakhinh khí cầu được dùng để do thám trận địa. Naymáy bay đã thay thế khí cầu, dùng đểoanh tạc, do thám và là phương tiện quan trọng trong mỗi cuộc chiến tranh hiện đại.
Các loại phương tiện hoạt động trong không gian vũ trụ như: vệ tinh do thám, vệ tinh mang vũ khí, trạm không gian, tàu chiến không gian, hành tinh hạm, việc sử dụng các phương tiện trong vũ trụ vẫn còn ở giai đoan sơ khai.
Nhiều cường quốc nhưMỹ,Nga,.... dựa vào chiến tranh để làm giàu bằng việc buôn vũ khí. Nhưng hầu hết các cuộc chiến tranh đều gây tổn thất nặng nề về nềnkinh tế các nước tham chiến.
Chiến tranh tôn giáo là một phần của lịch sử loài người. Thời điểm từ thế kỷX–XV xảy ra rất nhiều các cuộcchiến tranh tôn giáo. Nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh này là sự xung khắc, mâu thuẫn giữa các phe pháitôn giáo khác nhau.