Chủ nghĩa vô thần,thuyết vô thần hayvô thần luận, theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng"niềm tin vào sự tồn tại củathần linh.[1][2][3][4] Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô thần là sự bác bỏ niềm tin rằng thần linh tồn tại,[5][6] hẹp hơn và cụ thể hơn nữa thì có thể coi là quan điểm cho rằng không hề có thần linh.[1][2][7] Chủ nghĩa vô thần đối lập vớichủ nghĩa hữu thần,[8][9] theo dạng chung nhất, là niềm tin rằng có ít nhấtmột vị thần tồn tại.[9][10][11]
Nhiều người tự nhận là vô thần có thái độ hoài nghi với những gìsiêu nhiên, với lý do là không có bằng chứngthực nghiệm về sự tồn tại của thần linh mà hướng về phát triển vật chất. Nhưng những người khác lập luận ủng hộ chủ nghĩa vô thần trên cơ sở triết học, xã hội và lịch sử. Tuy trong số những người tự nhận là vô thần có nhiều người thiên về các học thuyết triết họcthế tục nhưchủ nghĩa nhân văn thế tục[12] vàchủ nghĩa tự nhiên,[13] không có một hệ tư tưởng hay một bộ hành vi nào mà tất cả những người vô thần cùng chia sẻ[14]
Ngay cả một sốtôn giáo, chẳng hạnKì-na giáo vàPhật giáo, không đòi hỏi đức tin vào mộtvị thần. Phật giáo quan niệm rằng vũ trụ được vận hành bởi các quy luật tự nhiên là Nhân - Quả vàLuân hồi, không hề có một vị thần nào có thể khống chế các quy luật đó mà phải nương theo.
Trong các ngôn ngữ của châu Âu, thuật ngữ "vô thần" xuất phát từ cách gọi tên hàm ý bôi xấu (tiếng Hy Lạp: ἀθεότηςatheotēs) dành cho những người hoặc những tín ngưỡng xung khắc vớiquốc giáo.[15] Với sự lan rộng củatư tưởng tự do,chủ nghĩa hoài nghi vàsự phê phán tôn giáo, thuật ngữ này đã bắt đầu có được ngữ nghĩa cụ thể hơn và ngày càng được sử dụng như sự tự xác nhận của những người vô thần.
Các tác giả không thống nhất được cách tốt nhất để định nghĩa và giải thích về khái niệm "vô thần",[16] họ bất đồng về việc khái niệm này áp dụng cho các thực thể siêu nhiên nào, tự nó là một khẳng định hay chỉ là sự không tồn tại của một khẳng định, và nó có đòi hỏi một sự phủ nhận tường minh và có ý thức hay không. Người ta đã đưa ra nhiều phạm trù để cố gắng phân biệt các hình thức khác nhau của chủ nghĩa vô thần.
Một số tranh cãi và mù mờ ngữ nghĩa xung quanh việc định nghĩa "chủ nghĩa vô thần" phát sinh từ khó khăn trong việc đạt đến sự đồng thuận đối với định nghĩa của các từ như "Thần" hay "Chúa" (Deity vàGod). Tính nhiều chiều của các khái niệm rất khác nhau về chúa và thần dẫn đến các ý niệm khác nhau về tầm áp dụng của chủ nghĩa vô thần. Ví dụ trong các ngữ cảnh màchủ nghĩa hữu thần được định nghĩa là đức tin vào một vịthần hữu ngãduy nhất, những người theothuyết đa thần (polytheism) hoặcthần giáo tự nhiên (deism) có thể bị xem là những người vô thần. Trong thế kỷ XX, quan niệm này đã mất dần sự ủng hộ do thuyết hữu thần đã được hiểu là hàm ý có đức tin vào bất cứ điều gì có tính chất thần thánh.[17]
Về các dạng hiện tượng bị phủ nhận, chủ nghĩa vô thần có thể chống lại bất cứ điều gì, từ sự hiện hữu của thần linh tới sự tồn tại của bất cứ khái niệmtâm linh,siêu nhiên, haysiêu việt nào, chẳng hạn như những khái niệm củaẤn Độ giáo vàPhật giáo.[18]
Một biểu đồ thể hiện mối quan hệ giữa các định nghĩa về thuyết vô thần yếu / mạnh và chủ nghĩa vô thần ngầm / rõ ràng. Những người theo chủ nghĩa vô thần mạnh mẽ / tích cực / cứng rắn rõ ràng ( màu tím ởbên phải) khẳng định rằng "có ít nhất một vị thần tồn tại" là một nhận định sai lầm. Những người vô thần yếu ớt / tiêu cực / mềm yếu rõ ràng ( màu xanh lam ởbên phải) bác bỏ hoặc né tránh niềm tin rằng bất kỳ vị thần nào tồn tại mà không thực sự khẳng định rằng "có ít nhất một vị thần tồn tại" là một tuyên bố sai. Theo các tác giả như George H.Smith, những người vô thần yếu ớt / tiêu cực tiềm ẩn (màu xanh lambên trái) sẽ bao gồm những người (chẳng hạn như trẻ nhỏ và một số người theo thuyết nông học), những người không tin vào một vị thần nhưng đã không bác bỏ một cách rõ ràng niềm tin đó. Lưu ý: (Các kích thước trong biểu đồ không có nghĩa là chỉ ra các kích thước tương đối trong một quần thể.) Sơ đồ minh họa quan hệ giữa các định nghĩa vô thần yếu/mạnh và hàm ý/tường minh.
Một người vô thần hàm ý chưa từng biết hay nghĩ đến đức tin vào thần thánh. Tình trạng này hàm ý rằng người này không có đức tin vào thần thánh.
Một người vô thần tường minh ngược lại đã có khái niệm về đức tin thánh thần. Có thể họ tuy nhận biết nhưng không có đức tin vào thần thánh, hay nghi ngờ sự tồn tại của thần thánh ("vô thần yếu"), hoặc họ chủ động khẳng định rằng thần thánh không tồn tại ("vô thần mạnh").
Các định nghĩa về chủ nghĩa vô thần khá đa dạng trong mức độ quan tâm về các ý niệm về thần thánh mà một người cần có để có thể được coi là một người vô thần.
Như đã nói trong phần mở đầu, chủ nghĩa vô thần còn được định nghĩa là đồng nghĩa với bất cứ hình thức nào của chủ nghĩa phi thần (non-theism), theo đó người không có đức tin vào một vị thần nào cũng được coi là một người vô thần. Người ta đã thống nhất rằng định nghĩa rộng này bao trùm cả trẻ sơ sinh và những người chưa từng được nghe nói về các ý niệm về thần thánh. Từ năm 1772,Nam tước d'Holbach đã nói rằng "Tất cả trẻ em được sinh ra là người vô thần; chúng không biết gì về Chúa"[19] Tương tự,George H. Smith (1979) đã cho rằng: "Người không biết về thuyết hữu thần là một người vô thần vì anh ta không tin vào một vị chúa nào. Phạm trù này cũng bao gồm một đứa trẻ đủ năng lực trừu tượng để hiểu các vấn đề liên quan nhưng lại chưa biết về các vấn đề đó. Thực tế rằng đứa trẻ không tin vào chúa đủ để coi nó là một người vô thần".[20] Smith lập nên thuật ngữ "chủ nghĩa vô thần hàm ý" (implicit atheism) để chỉ việc "không có đức tin mà không cố ý phủ nhận đức tin" và "chủ nghĩa vô thần tường minh" để chỉ định nghĩa thông thường về sự không tin một cách có ý thức.
Trong nền văn hóa phương Tây, quan niệm rằng trẻ em được sinh ra vô thần mới xuất hiện tương đối gần đây. Trước thế kỷ XVIII tại phương Tây, sự tồn tại của Chúa Trời được chấp nhận phổ biến đến mức thậm chí người ta nghi ngờ về khả năng tồn tại chủ nghĩa vô thần thực sự. Điều này được gọi là "thuyết bẩm sinh hữu thần" (theistic innatism) - quan niệm rằng tất cả mọi người tin vào Chúa ngay từ khi lọt lòng mẹ; quan niệm này hàm ý rằng những người vô thần đơn giản là không muốn thừa nhận.[21] Có một lập trường khẳng định rằng những người vô thần sẽ nhanh chóng tin vào Chúa trong những thời điểm khủng hoảng, rằng họ vẫnhoán cải khi hấp hối, hoặc rằng "không có người vô thần nơi chiến trận" (There are no atheists in foxholes – hàm ý rằng nhiều người tự nhận là vô thần thực ra thật sự tin vào Chúa Trời, và rằng trong những thời điểm cực kỳ căng thẳng hay sợ hãi, đức tin đó sẽ nổi lên và làm lu mờ xu hướng vô thần kém thực chất hơn).[22] Một số người đề xướng quan niệm này cho rằnglợi ích về nhân học của tôn giáo là ở chỗ đức tin tôn giáo giúp con người chịu được gian khổ tốt hơn. Một số người vô thần nhấn mạnh thực tế rằng đã có các ví dụ ngược lại với quan niệm trên, trong số đó là các ví dụ về "người vô thần nơi chiến trận".[23]
Các nhà triết học nhưAntony Flew,[24]Michael Martin[17] vàWilliam L. Rowe[7] đã phân biệt giữa chủ nghĩa vô thần mạnh (tích cực) với chủ nghĩa vô thần yếu (tiêu cực). Chủ nghĩa vô thần mạnh là sự khẳng định tường minh rằng thần thánh không tồn tại. Còn chủ nghĩa vô thần yếu bao hàm tất cả các hình thức khác của thuyết phi thần (non-theism). Theo cách phân loại này, bất cứ ai không theo thuyết hữu thần thì chắc chắn phải là một người theo vô thần mạnh hoặc vô thần yếu.[25] Các thuật ngữ "yếu" và "mạnh" xuất hiện tương đối gần đây; tuy nhiên, các thuật ngữ vô thần "tiêu cực" và "tích cực" đã được sử dụng trong các tài liệu triết học[24] và (với một nghĩa hơi khác) trong các biện giảiCông giáo.[26] Theo cách định nghĩa này về chủ nghĩa vô thần, hầu hết những người theothuyết bất khả tri được xem là những người vô thần yếu.
Trong khi những người nhưMartin khẳng định rằng thuyết bất khả tri dẫn tới chủ nghĩa vô thần yếu, đa số những người theo thuyết bất khả tri lại cho rằng quan niệm của mình tách biệt hẳn với chủ nghĩa vô thần[27][28] – thuyết mà họ có thể xem là thiếu cơ sở và ít thuyết phục chẳng kém thuyết hữu thần.[27] Việc không thể đạt được các tri thức chứng minh hay phủ nhận sự tồn tại của thần thánh (quan niệm của thuyết bất khả tri) đôi khi được xem là một ngụ ý rằng chủ nghĩa vô thần cũng đòi hỏi mộtbước nhảy vọt của niềm tin (leap of faith).[29][30] Các phản ứng thường gặp của những người vô thần đối với lập luận trên gồm có lập luận rằng các khẳng định "tôn giáo" chưa được chứng minh xứng đáng bị nghi ngờ không kém gì tất cả các khẳng định chưa được chứng minh khác[31] và rằng việc không thể chứng minh được sự tồn tại của một vị chúa trời không dẫn đến xác suất ngang bằng cho khả năng vị chúa đó tồn tại.[32] Nhà triết học người ScotlandJ. J. C. Smart thậm chí còn lập luận rằng "đôi khi một người thực sự vô thần có thể tự miêu tả mình, thậm chí miêu tả rất nhiệt tình, là một người theo thuyết bất khả tri, vìchủ nghĩa hoài nghi triết học bị tổng quát hóa quá mức đã ngăn cản chúng ta khẳng định bất cứ điều gì mình biết, có lẽ chỉ ngoại trừ các chân lý toán học và logic."[33] Tiếp đó, một số tác giả vô thần nổi tiếng nhưRichard Dawkins thiên về hướng phân biệt các quan điểm hữu thần, bất khả tri, vô thần bằngxác suất mà quan điểm đó gán cho khẳng định "Ảo tưởng về Chúa trời".[34]
Cách phân loại khái quát nhất về cơ sở lý luận vô thần là phân biệt giữa vô thần thực tiễn và vô thần lý thuyết. Mỗi hình thức khác nhau của vô thần lý thuyết xuất phát từ một cơ sở lý luận hay luận cứ triết học cụ thể nào đó. Ngược lại, vô thần thực tiễn không đòi hỏi một luận cứ cụ thể và có thể bao gồm sự không quan tâm và không biết về ý niệm thần thánh hay chúa trời.
Trong chủ nghĩa vô thần "thực tế" hay "không thực tế", các cá nhân sống như thể không có thần thánh và họ giải thích các hiện tượng tự nhiên mà không dùng đến những khái niệm có tính chất thần thánh. Sự tồn tại của thần thánh không bị phủ nhận, nhưng có thể được xem là không cần thiết hoặc vô ích; thần thánh không mang lại mục đích sống, cũng không gây ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày.[35] Một hình thức vô thần thực tiễn khác với các hàm ý vềcộng đồng khoa học làchủ nghĩa tự nhiên phương pháp luận (methodological naturalism) – sự "chấp nhận ngầm hay giả thiết về chủ nghĩa tự nhiên triết học trongphương pháp khoa học, không quan trọng việc có chấp nhận hay tin tưởng nó hay không".[36]
Chủ nghĩa vô thần thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau:
Thiếu động cơ tôn giáo – đức tin vào chúa trời hay thần thánh không tạo động cơ cho hành động đạo đức, hành động tôn giáo, hay bất cứ dạng hành động nào khác;
Chủ động loại bỏ các vấn đề về chúa trời hay thần thánh và tôn giáo ra khỏi hoạt động tìm kiếm tri thức hay các hoạt động thực tiễn.
Không quan tâm đến các vấn đề về chúa trời hay thần thánh và tôn giáo; hoặc
Không biết hoặc không có bất cứ ý niệm nào về chúa trời. hay thần thánh[37]
Về khía cạnh lý thuyết, hoặc tu hành, chủ nghĩa vô thần thừa nhận một cách tường minh các luận cứ chống lại sự tồn tại của thánh thần, phản ứng lại cácluận cứ hữu thần nhưluận cứ mục đích hoặcthuyết đánh cược của Pascal (Pascal's Wager). Các lập luận lý thuyết cho việc phủ nhận thần thánh dựa trên các dạng thức tâm lý học, xã hội học, siêu hình học và nhận thức luận đa dạng.
Chủ nghĩa vô thần nhận thức luận lý luận rằng con người ta không thể nhận biết về Chúa Trời hay xác định sự tồn tại của Chúa Trời. Nền tảng của chủ nghĩa vô thần nhận thức luận làthuyết bất khả tri – một học thuyết có nhiều dạng thức đa dạng. Trong triết học vềtính nội tại, thần thánh là một phần không thể tách biệt của chính thế giới, trong đó có tâm thức của con người, vàý thức của mỗi người bị khóa chặt trongchủ thể. Theo dạng thức bất khả tri này, hạn chế về góc nhìn đó ngăn cản mọi suy diễn khách quan từ đức tin vào một vị thần tới các khẳng định về sự tồn tại của vị thần đó. Thuyết bất khả triduy lý củaKant vàThời kỳ Khai sáng chỉ chấp nhận các tri thức thu được từ việc suy luận hợp lý của con người; dạng vô thần này khẳng định rằng về nguyên tắc ta không thể nhận thức được thần thánh, và do đó ta không thể biết thần thánh có tồn tại hay không. Dựa trên các quan niệm củaDavid Hume,chủ nghĩa hoài nghi khẳng định rằng sự xác tín về thứ gì cũng là bất khả thi, do đó người ta không bao giờ có thể nhận biết được sự tồn tại của Chúa Trời.[38] Việc gán thuyết bất khả tri cho chủ nghĩa vô thần là điều còn đang bị tranh cãi; thuyết này còn có thể được xem là một thế giới quan cơ bản và độc lập.[35]
Các dạng thức lập luận vô thần khác mà có thể xếp vào loại nhận thức luận, trong đó cóchủ nghĩa chứng thực logic vàchủ nghĩa bất khả tri lãnh đạm (ignosticism), khẳng định rằng các thuật ngữ cơ bản như "Chúa Trời" và các phát biểu như "Chúa Trời là đấng toàn năng" vô nghĩa hay không thể hiểu được.Chủ nghĩa bất khả nhận tri thần học (theological noncognitivism) cho rằng câu "Chúa Trời tồn tại" không biểu đạt một mệnh đề, trái lại, nó vô nghĩa về mặt nhận thức. Người ta đã tranh luận xung quanh việc các trường hợp như trên có thể xếp vào dạng nào của chủ nghĩa vô thần hay thuyết bất khả tri hay không. Các nhà triết họcA. J. Ayer vàTheodore M. Drange không đồng ý xếp vào thể loại nào vì cả hai loại này đều chấp nhận "Chúa Trời tồn tại" là một mệnh đề; thay vào đó, họ đặt chủ nghĩa bất khả nhận tri (noncognitivism) vào một thể loại riêng.[39][40]
Chủ nghĩa vô thần siêu hình dựa trênthuyết nhất nguyên siêu hình – quan niệm rằng thực tại là đồng nhất và không thể phân chia. Những người vô thần siêu hình tuyệt đối đồng ý với một hình thức nào đó củathuyết thực hữu, do đó họ phủ nhận thẳng sự tồn tại của những gì phi vật lý. Những người vô thần tương đối giữ một thái độ phủ nhận ngầm đối với khái niệm về Chúa, dựa trên sự phi lý giữa các triết thuyết của họ và các thuộc tính thường được cho là của Chúa Trời, chẳng hạn nhưtính siêu việt, mộtkhía cạnh cá thể, hoặc thể thống nhất. Các ví dụ về chủ nghĩa vô thần siêu hình tương đối bao gồmthuyết phiếm thần,thuyết thần tồn tại nơi vạn vật (panentheism) vàthuyết thần giáo tự nhiên.[41]
Epicurus được coi là người đầu tiên phát triểnvấn đề về cái ác.David Hume, trongĐối thoại về Tôn giáo Tự nhiên (1779) đã trích lời Epicurus khi phát biểu luận cứ đó trong hình thức một chuỗi câu hỏi:[42]"Chúa muốn ngăn chặncái ác nhưng không thể? Nếu thế thì ngài không toàn năng. Còn nếu Chúa có thể ngăn chặncái ác nhưng không muốn làm? Nếu thế thì ngài không toàn thiện. Còn nếu Chúa vừa muốn ngăn chặn cái ác vừa có thể làm điều này? Vậy thì tại sao cái ác vẫn tồn tại?"
Các nhà triết học nhưLudwig Feuerbach[43] vàSigmund Freud lập luận rằng Chúa Trời và các đức tin tôn giáo khác là các phát minh của con người, được tạo ra để thỏa mãn các nhu cầu hay ý muốn đa dạng về tâm lý hoặc tình cảm. Đây cũng là quan điểm của nhiềuPhật tử.[44] Chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Feuerbach,Karl Marx vàFriedrich Engels, lập luận rằng đức tin vào Chúa Trời và tôn giáo là các công cụ xã hội mà những người có quyền lực sử dụng để áp bức giai cấp lao động. TheoMikhail Bakunin, "ý niệm về Chúa hàm ý sự từ bỏ lý tính và công lý của con người; nó là sự phủ nhận kiên quyết nhất đối với quyền tự do của con người, và nó dẫn đến kết quả tất yếu là sự nô lệ của loài người về lý thuyết cũng như thực tế". Đảo ngược câu cách ngôn nổi tiếng củaVoltaire"Nếu không có Chúa thì cần phải phát minh ra Chúa", Bakunin nói"Nếu quả là có Chúa thì cần phải bãi bỏ ông ta".[45]
Chủ nghĩa vô thần logic khẳng định rằng nhiềuý niệm về thần linh, chẳng hạn nhưThiên Chúa cá thể củaKi-tô giáo, được gán cho các phẩm chất mâu thuẫn lẫn nhau về logic. Những người vô thần này đưa ra cáclập luận bằngsuy diễn logic phản bác sự tồn tại của Chúa. Các lập luận này khẳng định sự không tương thích giữa những nét nhất định, chẳng hạn như sự hoàn hảo, vị thế đấng tạo hóa, tính bất biến, sựtoàn tri toàn thức, sự hiện diện ở mọi nơi (omnipresence),toàn năng,vô cùng nhân từ (omnibenevolence),siêu việt, tính người (một thực thể kiểu như người), phi vật chất,công bằng và lòng khoan dung.[46]
Các nhà vô thần theo trường pháithần luận thuyết (theodicy) tin rằng không thể dung hòa thế giới như họ trải nghiệm với các đức tính mà các nhà thần học thường gán cho Chúa Trời và các vị thần. Họ lập luận rằng không thể tồn tại một vị Chúa vừa toàn tri vừa toàn năng và vừa toàn thiện, đạo đức. Bởi nếu có vị Chúa như thế thì tại sao ngài không tiêu diệt cái ác, và thế giới này vẫn cócái ác, cái xấu, sự khổ đau?[47]
Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Phật Thích Ca Mâu Ni), người sáng lập raPhật giáo, cũng đưa ra những lập luận phản bác sự tồn tại của một đấng toàn năng, sáng tạo thế giới từ hàng nghìn năm trước. Trong kinh Phật,"Phật nói rằng ba đặc tính mà người ta thường cho là của Thượng đế, đó là toàn năng, toàn tri toàn thức, và vô cùng nhân từ đối với nhân loại, nhưng chúng không thể cùng tương thích với thực tế hiện sinh củasự khổ."[48] Phật Thích Ca Mâu Ni giảng rằngvũ trụ này được vận hành bởi quy luật Nhân - Quả và Luân hồi, chứ không hề có vị Thượng đế nào tạo ra vũ trụ và điều khiển những quy luật đó.
Trường phái vô thần mang tính xây dựng hay theothuyết giá trị (axiology) phủ nhận sự tồn tại của thần thánh để nghiêng về một "sự tuyệt đối cao hơn", chẳng hạn nhưnhân loại. Hình thức vô thần này coi nhân loại như là nguồn gốc tuyệt đối của luân lý và các giá trị, và cho phép các cá nhân giải quyết các vấn đề đạo đức mà không cần viện đến Chúa. Marx, Nietzsche, Freud và Sartre đều sử dụng luận cứ này để truyền đạt các thông điệp về tự do, phát triển đầy đủ (full-development), và niềm hạnh phúc không bị kìm giữ.[35]
Một trong nhữngphê phán phổ biến nhất đối với chủ nghĩa vô thần lại có hướng ngược lại – rằng việc phủ nhận sự tồn tại của một vị Chúa công bằng dẫn tớichủ nghĩa tương đối về đạo đức (moral relativism), để con người ta ở tình trạng không có nền tảng về đạo đức hay luân lý,[49] hoặc làm cho cuộc sống trở nênvô nghĩa và đau khổ.[50]Blaise Pascal đưa ra quan điểm này năm 1669.[51]
Tuy thuật ngữ "vô thần" mới xuất hiện ở châu Âu từ thế kỷ XVI tạiPháp,[52][53] các quan niệm mà ngày nay được ghi nhận là vô thần đã được ghi lại từthời cổ đại.
Người ta đã tìm thấycác trường phái vô thần trongẤn Độ giáo – một tôn giáo có xu hướng hữu thần rất mạnh.[54] Trường phái triết họcCārvāka có tính chất triệt để duy vật và phản thần đã bắt nguồn từẤn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trướcCông Nguyên. Đây có lẽ là trường phái triết học vô thần rõ rệt nhất của Ấn Độ. Nhánh triết học Ấn Độ này được coi là một hệ thống không chính thống (heterodox) và không được xem là một phần của 6 trường phái chính thống của Ấn Độ giáo.[55][56] Chatterjee và Datta giải thích rằng hiểu biết của các nhà nghiên cứu về triết học Cārvāka phân mảnh, chỉ dựa chủ yếu trên các phê phán của các trường phái khác, và không phải một truyền thống còn phát triển:
“
Tuy chủ nghĩa duy vật ở hình thức này hay hình thức khác đã luôn hiện diện ở Ấn Độ, được nhắc đến đôi chỗ trong kinh Vệ Đà, kinh sách Phật giáo, các bộ sử thi, cũng như trong các tác phẩm triết học ra đời muộn hơn, chúng ta không tìm thấy một tài liệu có hệ thống nào về chủ nghĩa duy vật, hay một trường phái có tổ chức nào tương tự như kiểu các trường phái triết học. Nhưng hầu như tất cả các tác phẩm của các trường phái khác đều nói đến các quan điểm duy vật khi phủ nhận chúng. Kiến thức của chúng ta về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ chỉ dựa chủ yếu vào những điều này.[57]
”
Các trường phái triết học Ấn Độ khác được coi là vô thần bao gồmSamkhya cổ điển vàPurva Mimamsa. Sự phủ nhận một đấng tạo hóa cá thể cũng được thấy trongKì na giáo và Phật giáo ở Ấn Độ.[58]
Phật giáo là tôn giáo không có khái niệm về một đấng tác tạo haythần có vị cách,Phật cũng không tự nhận mình là thần thánh.Vũ trụ quan Phật giáo có nhiều vị thần, nhưng trái với quan niệm thường gặp ở các tôn giáo khác về tính bất biến và vĩnh cửu của thần thánh, các vị này cũng trải qua quá trình sinh tử như con người. Ngoài ra, trong nhiều nền văn hóa, Phật giáo cùng tồn tại một cách hòa hợp với các quan niệm thần thánh bản địa. Nhưng về bản chất, việc có tồn tại các vị thần thánh hay thượng đế hay không không phải là mối quan tâm của Phật giáo.
Chủ nghĩa vô thần phương Tây có gốc rễ từtriết học Hy Lạptiền Socrates, nhưng không nổi lên như là một thế giới quan rõ rệt cho đến cuốithời kỳ Khai sáng.[59]Diagoras xứ Melos, triết gia Hy Lạp thế kỷ V trướcCông Nguyên, được xem là "người vô thần đầu tiên",[60], chỉ trích mạnh mẽ tôn giáo và chủ nghĩa huyền bí.Critias coi tôn giáo là một phát minh của con người nhằm dọa cho dân chúng sợ hãi mà phải tuân theo các quy tắc đạo đức.[61] Những người theothuyết nguyên tử nhưDemocritus cố gắng giải thích thế giới theo một cách thuần túyduy vật, hoàn toàn không viện đến cái gì tâm linh hay huyền bí.[62]Prodicus vàProtagoras nằm trong số các triết gia tiền Socrates khác cũng có quan điểm vô thần.[63] Vào thế kỷ III trước Công Nguyên, các triết gia Hy LạpTheodorus[64] vàStrato xứ Lampsacus[65] cũng không tin là có các vị thần.
Euhemerus (khoảng 330 – 260 TCN) công bố quan điểm của mình rằng thần thánh chỉ là các nhà lãnh đạo, tướng lĩnh và vị tiền bối trong quá khứ đã được phong thần, và rằng việc tôn sùng những người này và các tôn giáo về bản chất là sự tiếp nối của các vương quốc đã biến mất và các cấu trúc chính trị thời kỳ trước.[68] Tuy không triệt để là một người vô thần, về sau Euhemerus đã bị chỉ trích là đã "phát tán chủ nghĩa vô thần ra khắp thế giới bằng cách xóa tan các vị thần thánh".[69]
Nhà duy vật theo thuyết nguyên tửEpicurus (khoảng 341 – 270 TCN) phản bác nhiều thuyết tôn giáo, trong đó có sự tồn tại sau khi chết (lai thế) hoặc một vịthần tiên; ông coilinh hồn là cái thuần túy vật chất và không bất tử. Trong khithuyết Epicurus (chủ nghĩa hưởng lạc) không phủ nhận sự tồn tại của các vị thần, nhưng ông tin rằng nếu có thần thánh thì họ không quan tâm đến loài người.[70]
Nhà thơ La MãLucretius (khoảng 99 – 55 TCN) cũng đồng ý rằng nếu có thần thánh thì họ không quan tâm đến loài người và không thể tác động lên thế giới tự nhiên. Vì lý do này, ông tin rằng loài người không nên sợ hãi những gì siêu nhiên. Ông giảng giải cặn kẽ về các quan niệm của ông theo trường phái Epicurus về vũ trụ, nguyên tử, linh hồn, sự không bất tử và tôn giáo trong tác phẩmDe rerum natura (Về bản chất của sự vật),[71] tác phẩm này đã phổ biến triết học Epicurus ởLa Mã.[72]
Nhà triết học La MãSextus Empiricus cho rằng người ta nên ngừng phán xét về gần như tất cả các đức tin – một hình thức củachủ nghĩa hoài nghi được gọi làchủ nghĩa hoài nghi Pyrrho (Pyrrhonism), rằng không có gì ác một cách cố hữu, và rằng người ta có thể đạt đượcataraxia (sự bình yên trong tâm thức) bằng cách ngừng chỉ trích phán xét. Nhiều tác phẩm của ông vẫn còn được lưu lại đã có một ảnh hưởng lâu dài đến các nhà triết học sau này.[73]
Ý nghĩa của "vô thần" thay đổi theo tiến trình của thời cổ điển. Những tín đồ Ki-tô giáo thời kỳ đầu đã bị những người không theoKi-tô giáo coi là vô thần vì họ không tin vào các vị thần của các tín ngưỡng đa thần.[74] ThờiĐế chế La Mã, những người Ki-tô giáo bị hành quyết vì họ phủ nhậncác vị thần La Mã nói chung và tục thờ phụng hoàng đế nói riêng. Khi Ki-tô giáo trở thành quốc giáo của La Mã năm 381 dưới thờiTheodosius I,dị giáo Ki-tô giáo bắt đầu trở thành một tội đáng bị trừng phạt.[75]
Các quan điểm vô thần hiếm khi được ủng hộ ở châu Âu trongthời Trung cổ (xemTòa án dị giáo). Thay vào đó, siêu hình học, tôn giáo và thần học là những mối quan tâm chủ yếu.[76] Tuy nhiên, trong thời kỳ này có những phong trào đã đẩy mạnh các khái niệm không chính thống về Thiên Chúa Ki-tô giáo, trong đó có những quan niệm khác nhau về thiên nhiên, sự siêu việt và khả năng tri thức của Thiên Chúa. Các cá nhân và các nhóm nhưJohn Scotus Eriugena,David xứ Dinant,Amalric xứ Bena, vàLinh hồn Tự do (Brüder und Schwestern des freien Geistes) gìn giữ các quan điểm Ki-tô giáo với các xu hướng củathuyết phiếm thần.Nicholas xứ Cusa tin tưởng ở một hình thức củathuyết duy tín mà ông gọi làdocta ignorantia (sự thiếu hiểu biết một cách có tri thức), khẳng định rằng Chúa Trời vượt ra ngoài khả năng phạm trù hóa của con người và tri thức của chúng ta về Chúa chỉ nằm trong phạm vi của sự phỏng đoán.William xứ Ockham tạo cảm hứng cho các xu hướng phản-siêu hình bằng quan niệm của ông về giới hạnduy danh (nominalistic) của tri thức con người đối với các đối tượng đặc biệt, và ông khẳng định rằng trí tuệ con người không có khả năng hiểu được bản chất thánh thần dù bằng trực quan hay lý luận. Những người ủng hộ Ockham, chẳng hạnJohn xứ Mirecourt vàNicholas xứ Autrecourt đã đẩy quan niệm này ra xa hơn. Kết quả là sự chia rẽ giữa đức tin và lý tính đã ảnh hưởng đến các nhà thần học sau này nhưJohn Wycliffe,Jan Hus vàMartin Luther.[76]
Thời Phục Hưng và thời kỳ phong tràoCải cách Kháng cách đã chứng kiến một sự trỗi dậy của nhiệt tình tôn giáo, thể hiện ở sự nở rộ của các giáo phái, hội hữu ái và tinh thần mộ đạo mới trong thế giới Ki-tô giáo, và sự xuất hiện ngày càng nhiều của các giáo phái Kháng cách khổ hạnh chẳng hạn như các giáo phái theotư tưởng Calvin. Thời kỳ của sự đối địch giữa các nhà thờ này đã cho phép một phạm vi rộng lớn hơn cho các suy đoán thần học và triết học, nhiều suy đoán trong số đó sau này đã được dùng để đẩy mạnh một thế giới quan hoài nghi về tôn giáo.
Cácphê phán Ki-tô giáo xuất hiện ngày càng nhiều trong các thế kỷ XVII và XVIII, đặc biệt ởPháp vàAnh. Một số nhà tư tưởng Kháng cách, chẳng hạnThomas Hobbes, ủng hộ một triết học duy vật và chủ nghĩa hoài nghi đối với các hiện tượng siêu nhiên. Cuối thế kỷ XVII,thuyết thần giáo tự nhiên bắt đầu được ủng hộ công khai bởi các trí thức nhưJohn Toland.[77] Tuy chê cười Ki-tô giáo, nhưng nhiều người theo thuyết thần giáo tự nhiên xem thường chủ nghĩa vô thần. Người vô thần đầu tiên lột bỏ tấm áo choàng của thuyết thần giáo tự nhiên, thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại của thần thánh, làJean Meslier, một tu sĩ người Pháp sống ở cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.[78] Theo sau ông là các nhà tư tưởng vô thần công khai khác, chẳng hạn như Nam tướcBaron d'Holbach,Jacques-André Naigeon ở cuối thế kỷ XVIII, khi mà việc thể hiện sự bất tín vào Chúa Trời đã trở nên đỡ nguy hiểm hơn.[79]David Hume là người tiêu biểu có hệ thống nhất về tư tưởng Khai sáng. Ông phát triển một nhận thức luận hoài nghi với nền móng làchủ nghĩa kinh nghiệm, nhấn mạnh cơ sở siêu hình của thần học tự nhiên.
CuốnBản chất của Ki-tô giáo củaLudwig Feuerbach (1841) đã có ảnh hưởng lớn tới các triết gia nhưEngels,Marx,David Strauss vàNietzsche. Ông xem Chúa Trời là một phát minh của con người và coi các hoạt động tôn giáo là để thỏa mãn mong ước.
Cách mạng Pháp đã đưa chủ nghĩa vô thần ra ngoài các phòng trà để đến với công chúng. Các cố gắng thi hành Hiến pháp dân sự của giới Tăng lữ (Constitution civile du clergé) đã dẫn tới bạo lực chống giới tăng lữ và việc nhiều tăng lữ bị trục xuất khỏi nước Pháp. Các sự kiện chính trị hỗn loạn tạiParis thời cách mạng cuối cùng đã dẫn đến việc phe cấp tiếnJacobin đoạt được quyền lực năm 1793, mở ra thời kỳChuyên chính Dân chủ Cách mạng Jacobin, mà người Pháp gọi làla Terreur (thời kỳ Khủng bố). Tại đỉnh điểm, nhiều người vô thần trong giới quân sự đã cố gắng dùng vũ lực để loại bỏ hoàn toàn Ki-tô giáo khỏi nước Pháp, thay thế tôn giáo bằngCulte de la Raison (Sự tôn thờ lý tính). Những vụ khủng bố này kết thúc sau khiRobespierre bị tử hình (vụĐảo chính tháng Nóng), nhưng một số biện pháp thế tục hóa của thời kỳ này vẫn là một di sản bền vững của nền chính trị Pháp.
Trong thời kỳNapoléon, việc thế tục hóa xã hội Pháp đã được đưa vào hiến pháp, và cách mạng được xuất khẩu sangBắc Ý với hy vọng tạo ra các nền cộng hòa dễ uốn nắn. Vào thế kỷ XIX, nhiều nhà vô thần và các nhà tư tưởng chống tôn giáo khác đã dành công sức của mình cho cách mạng xã hội và chính trị, tạo điều kiện chocác cuộc nổi dậy năm 1848,Risorgimento ở Ý và sự phát triển của một phong tràoxã hội chủ nghĩa quốc tế.
Chủ nghĩa chứng thực logic vàthuyết khoa học vạn năng (scientism) đã mở đường chochủ nghĩa chứng thực mới (neopositivism),triết học phân tích (analytical philosophy),thuyết cấu trúc (structuralism) vàchủ nghĩa tự nhiên. Chủ nghĩa chứng thực mới và triết học phân tích đã loại bỏ thuyết siêu hình và chủ nghĩa duy lý cổ điển để hướng vềchủ nghĩa kinh nghiệm chặt chẽ và thuyết duy danh nhận thức luận. Những người nổi bật nhưBertrand Russell phủ nhận mạnh mẽ đức tin vào Chúa Trời. Trong tác phẩm thời kỳ đầu của mình,Ludwig Wittgenstein đã cố gắng tách riêng ngôn ngữ siêu hình và siêu nhiên ra khỏi nghị luận duy lý.A. J. Ayer dùng lập trường gắn bó với khoa học thực nghiệm để khẳng định tính bất khả kiểm chứng và vô nghĩa của các phát biểu tôn giáo. Trong mối liên quan đó, thuyết cấu trúc ứng dụng củaLévi-Strauss dẫn nguồn gốc của ngôn ngữ tôn giáo về tiềm thức của con người khi phủ nhận ý nghĩa siêu việt của ngôn ngữ đó.J. N. Findlay vàJ. J. C. Smart lập luận rằng sự tồn tại của Chúa Trời về logic là không cần thiết. Các nhà tự nhiên học và nhất nguyên duy vật nhưJohn Dewey coi thế giới tự nhiên là cơ sở của mọi thứ, họ phủ nhận sự tồn tại của Chúa Trời hay sự bất tử.[33][83]
Thế kỷ XX còn chứng kiến sự lớn mạnh về chính trị của chủ nghĩa vô thần, được khích lệ bởi diễn giải về các tác phẩm củaMarx vàEngels. SauCách mạng tháng Mười ở Nga năm 1917, tự do tôn giáo cho các tôn giáo nhỏ đã tồn tại được vài năm, trước khi các chính sách củaStalin chuyển sang hướng kiềm chế tôn giáo.Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác chủ động truyền bá chủ nghĩa vô thần và phản đối tôn giáo, thường bằng các biện pháp bạo lực.[84][85]
Những người đi đầu khác nhưE. V. Ramasami Naicker (Periyar), một lãnh đạo vô thần nổi bật của Ấn Độ, đấu tranh chống lạiẤn Độ giáo vàđẳng cấp Bà-la-môn do phân biệt đối xử và chia rẽ nhân dân dưới danh nghĩađẳng cấp và tôn giáo.[86] Điều này thể hiện rõ năm 1956 khi ông đeo cho thầnRama của Ấn Độ giáo một tràng hoa kết từ những chiếc dép và đưa ra những tuyên bốphản thần.[87]
Năm 1966, tạp chíTime đặt câu hỏi "Phải chăng Chúa đã chết?" ("Is God Dead?")[88] khi bàn vềphong trào thần học về cái chết của Chúa, trích dẫn ước lượng rằng gần một nửa dân chúng trên thế giới sống dưới một quyền lực phản tôn giáo, và hàng triệu người khác ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ có vẻ thiếu kiến thức về Thiên Chúa Ki-tô giáo.[89] Năm sau, chính phủAlbania củaEnver Hoxha công bố lệnh đóng cửa tất cả các cơ sở tôn giáo trong cả nước, tuyên bố Albania là quốc gia vô thần đầu tiên trên thế giới.[90] Các chính phủ này đã làm tăng các liên hệ tiêu cực về chủ nghĩa vô thần, đặc biệt khi tinh thầnchống cộng sản ở Hoa Kỳ đang mạnh mẽ, bất chấp một thực tế là các nhà vô thần nổi bật cũng là những người theo chủ nghĩa chống cộng.[91]
Sau khiBức tường Berlin sụp đổ, số các chính phủ chủ động chống tôn giáo đã giảm đi đáng kể. Năm 2006, Timothy Shah củaPew Forum ghi nhận "một xu hướng toàn cầu của tất cả các nhóm tôn giáo chính, trong đó các phong trào dựa vào Chúa Trời và đức tin đang được chứng kiến sự tin tưởng và ảnh hưởng ngày càng cao trong thế đối đầu với các phong trào và hệ tư tưởng thế tục".[92] NhưngGregory S. Paul và Phil Zuckerman coi đây chỉ là một huyền thoại và cho rằng tình hình thực tế phức tạp và nhiều sắc thái hơn nhiều.[93]
Khó có thể xác định được số người vô thần trên toàn thế giới. Những người tham gia các cuộc thăm dò ý kiến về tôn giáo và tín ngưỡng có thể định nghĩa khái niệm "vô thần" không giống nhau hoặc có sự phân biệt khác nhau giữa vô thần, các đức tin phi tôn giáo, tôn giáo phi thần và các đức tin tâm linh[95] Ngoài ra, dân chúng ở một số vùng trên thế giới không nhận mình là người vô thần để tránh bị xã hội kì thị,phân biệt đối xử vàđàn áp.[96] Một cuộc thăm dò năm 2007 công bố tại từ điểnEncyclopædia Britannica cho thấy số người không theo tôn giáo chiếm 11,7% dân số thế giới và số người vô thần chiếm khoảng 2,3%. Các con số này không bao gồm những người theo các tôn giáo vô thần, chẳng hạn một số tín đồ Phật giáo.[97] Một cuộc thăm dò vào tháng 11-12 năm 2006 được công bố tại báoFinancial Times đưa ra các tỷ lệ tại Hoa Kỳ và 5 nước châu Âu. Theo đó, tỷ lệ người Mỹ nói rằng mình có một đức tin nào đó vào thượng đế hay đấng tối cao là 73% và cao hơn tỷ lệ tương ứng của châu Âu. Còn đối với những người trưởng thành được thăm dò ý kiến ở châu Âu, nước Ý có tỷ lệ thể hiện đức tin cao nhất (62%), còn Pháp có tỷ lệ thấp nhất (27%). Tại Pháp, 32% tuyên bố mình là người vô thần, ngoài ra còn có 32% khác tuyên bố mình theothuyết bất khả tri.[98] Một cuộc thăm dò chính thức củaLiên minh châu Âu thu được các kết quả tương đồng: 18% dân số EU không tin vào một vị thượng đế nào; 27% chấp nhận sự tồn tại của "sức sống tâm linh" ("spiritual life force") nào đó, trong khi 52% khẳng định đức tin vào một vị thượng đế cụ thể. Tỷ lệ những người có đức tin tăng lên 65% ở những người chỉ đi học đến tuổi 15; trong những người tham gia thăm dò ý kiến, những người nhận là xuất thân từ các gia đình giáo dục nghiêm khắc có tỷ lệ tin vào thượng đế cao hơn những người cho rằng mình xuất thân từ gia đình ít quy củ nghiêm khắc.[99]
Một lá thư in trong tạp chíNature năm 1998 viết về một cuộc thăm dò cho kết quả là: trong các thành viênViện khoa học quốc gia Hoa Kỳ (National Academy of Science), tỷ lệ người có đức tin vào một vị thượng đế cá thể hoặclai thế (sự sống sau cái chết) chỉ là 7,0% - mức thấp nhất trong lịch sử, trong khi tỷ lệ này ở dân Mỹ là 85%.[100] Cũng năm đóFrank Sulloway ởViện Công nghệ Massachusetts vàMichael Shermer ởĐại học Tiểu bang California (California State University) thực hiện một nghiên cứu mà kết quả thăm dò người Mỹ trưởng thành "có bằng cấp" (12% có bằng tiến sĩ, 62% tốt nghiệp đại học) cho thấy 64% tin vào Chúa Trời, và có sự tương quan cho thấy đức tin mạnh mẽ vào tôn giáo giảm dần khi học càng cao.[101] Mối tương quan nghịch giữa tôn giáo và trí tuệ đã được thấy ở 39 nghiên cứu khác trong thời gian từ 1927 đến 2002, theo một bài viết tại tạp chíMensa.[102] Các phát kiến này cũng thuận vớisiêu - phân tích thống kê năm 1958 của Giáo sưMichael Argyle ởĐại học Oxford. Ông phân tích 7 công trình nghiên cứu đã điều tra mối tương quan giữa thái độ đối với tôn giáo vàchỉ số thông minh của các học sinh và sinh viên Mỹ. Tuy tìm thấy một mối tương quan nghịch rõ ràng, phân tích đã không chỉ ra mối quan hệ nhân quả mà ghi nhận rằng các nhân tố như nền tảng gia đình nghiêm khắc và tầng lớp xã hội có thể đã có ảnh hưởng.[103] Trong Điều tra Dân số và Cư trú năm 2006 củaÚc, tại câu hỏi về tôn giáo, 18,7% dân số đánh dấu ô "không có tôn giáo" hoặc viết một câu trả lời mà sau đó được xếp vào diện không có tôn giáo. Câu hỏi này không bắt buộc, và có 11,2% dân số không trả lời.[104]
Tuy những người tự nhận là vô thần thường được coi làkhông tôn giáo, một số giáo phái của một số tôn giáo lớn phủ nhận sự tồn tại của một đấng tác tạo có vị cách.[106] Những năm gần đây, một số giáo phái đã thu nạp một số tín đồ vô thần công khai, chẳng hạn nhưDo Thái giáo nhân văn (humanistic Judaism) hayngười Do Thái vô thần[107][108] và những người vô thần Ki-tô giáo.[109][110][111]
Theo cách hiểu chặt chẽ nhất, chủ nghĩa vô thần chứng thực không nói đến một niềm tin cụ thể nào ngoài sự không tin vào bất cứ thần thánh nào. Do đó những người vô thần có thể có các niềm tin tâm linh. Vì lý do này, người vô thần có thể có các niềm tin luân lý đa dạng, từthuyết phổ quát đạo đức (moral universalism) củachủ nghĩa nhân văn, thuyết nói rằng cần áp dụng thống nhất một quy tắc đạo đức cho tất cả mọi người, tớithuyết hư vô đạo đức (moral nihilism), thuyết cho rằng đạo đức là vô nghĩa.[112]
Tuy là một chân lý triết học, được bao hàm trongsong đề Euthyphro của Plato rằng vai trò của các vị thần trong việc xác định đúng sai là không cần thiết hoặc có tính thất thường, luận cứ rằng đạo đức phải xuất phát từ Chúa Trời và không thể tồn tại mà không có một đấng đạo hóa thông thái đã là một đặc trưng dai dẳng của các cuộc tranh luận chính trị hay triết học.[113][114][115] Các quy tắc chung về đạo đức như "giết người là sai" được xem làluật thần thánh, đòi hỏi một nhà làm luật và phán xét thần thánh. Tuy nhiên, nhiều nhà vô thần lý luận rằng việc đối xử với đạo đức một cách quá pháp lý đã dùng đến mộtphép loại suy sai (false analogy), và đạo đức không phụ thuộc vào một nhà lập pháp theo cùng cách của các luật pháp.[116]
Các nhà triết họcSusan Neiman[117] vàJulian Baggini[118] cùng với một số người khác cho rằng cư xử một cách có đạo đức chỉ vì một quyền lực thần thánh đòi hỏi thì không phải là hành vi đạo đức chân chính mà chỉ là sự tuân phục mù quáng. Baggini lập luận rằng chủ nghĩa vô thần là một cơ sở tốt hơn cho luân lý học. Ông cho rằng một cơ sở đạo đức nằm ngoài các mệnh lệnh tôn giáo là cần thiết cho việc đánh giá tính đạo đức của chính các mệnh lệnh đó - để có thể nhận thức được rõ ràng, ví dụ "người hãy ăn cắp" là vô đạo đức, ngay cả khi tôn giáo của ai đó ra lệnh như vậy - và rằng những người vô thần do đó có lợi thế trong việc có xu hướng đưa ra một đánh giá như vậy.[119] Nhà triết học đương đại người Anh Martin Cohen đã đưa ra ví dụ có ý nghĩa quan trọng về các mệnh lệnh trong Kinh Thánh có tính chất ủng hộ tra tấn và chế độ nô lệ, ông coi đây là bằng chứng cho thấy các mệnh lệnh tôn giáo đã tuân theo các truyền thống chính trị và xã hội chứ không phải ngược lại. Nhưng ông cũng ghi nhận rằng có vẻ những nhà triết học được cho là vô tư và khách quan cũng đồng tình với xu hướng này.[120] Cohen phát triển luận cứ này một cách chi tiết hơn trong tác phẩmPolitical Philosophy from Plato to Mao (Triết học chính trị từ Plato đến Mao), trong đó ông lập luận rằngKinh Koran đóng một vai trò trong việc duy trì các quy tắc xã hội có từ đầu thế kỷ VII bất chấp những thay đổi trong xã hội thế tục.[121]
Tuy nhiên, những nhà vô thần nhưSam Harris đã lập luận rằng sự phụ thuộc của các tôn giáo phương Tây vào thần quyền đã dẫn nó tới sựchủ nghĩa chuyên chế vàgiáo điều.[122]Chủ nghĩa cơ yếu tôn giáo (religious fundamentalism) vàkhuynh hướng tôn giáo ngoại tại (extrinsic religious orientation) (khi tôn giáo được gìn giữ vì nó phục vụ các lợi ích kín đáo)[123] đã được xem là có tương quan với chủ nghĩa chuyên chế, giáo điều, và thành kiến.[124] Luận cứ này kết hợp với các sự kiện lịch sử được cho là thể hiện sự nguy hiểm của tôn giáo nhưThập tự chinh,tòa án dị giáo,truy lùng phù thủy,tấn công khủng bố – thường được những nhà vô thần bài tôn giáo sử dụng để biện minh cho các quan điểm của mình.[125] Các tín đồ phản biện rằng một sốchế độ cổ xúy vô thần nhưLiên Xô vàTrung Quốc đã gây ra cái chết của rất nhiều người.[126][127] Để phản bác, các nhà vô thần như Sam Harris và Richard Dawkins cho rằng những sự tàn ác đó bị ảnh hưởng bởichủ nghĩa Marx giáo điều chứ không phải chủ nghĩa vô thần, và rằng trong khiStalin vàMao Trạch Đông là những người vô thần, họ không thực hiện những điều đó nhân danh chủ nghĩa vô thần.[128][129]
^abHarvey, Van A.Agnosticism and Atheism, trongFlynn 2007, tr. 35: "The termsATHEISM andAGNOSTICISM lend themselves to two different definitions. The first takes the privativea both before the Greektheos (divinity) andgnosis (to know) to mean that atheism is simply the absence of belief in the gods and agnosticism is simply lack of knowledge of some specified subject matter. The second definition takes atheism to mean the explicit denial of the existence of gods and agnosticism as the position of someone who, because the existence of gods is unknowable, suspends judgment regarding them ... The first is the more inclusive and recognizes only two alternatives: Either one believes in the gods or one does not. Consequently, there is no third alternative, as those who call themselves agnostics sometimes claim. Insofar as they lack belief, they are really atheists. Moreover, since absence of belief is the cognitive position in which everyone is born, the burden of proof falls on those who advocate religious belief. The proponents of the second definition, by contrast, regard the first definition as too broad because it includes uninformed children along with aggressive and explicit atheists. Consequently, it is unlikely that the public will adopt it."
^abSimon Blackburn, biên tập (2008)."atheism".The Oxford Dictionary of Philosophy (ấn bản thứ 2008). Oxford: Oxford University Press. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2013.Either the lack of belief that there exists a god, or the belief that there exists none. Sometimes thought itself to be more dogmatic than mere agnosticism, although atheists retort that everyone is an atheist about most gods, so they merely advance one step further.
^Runes, Dagobert D. (1942).Dictionary of Philosophy. New Jersey: Littlefield, Adams & Co. Philosophical Library.ISBN0-06-463461-2.Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.(a) niềm tin rằng không có Chúa; (b) Một số nhà triết học bị gọi là "vô thần" vì họ không giữ một niềm tin vào một vị Chúa cá thể. Vô thần ở đây mang nghĩa "không hữu thần". Nghĩa đầu là nghĩa trực tiếp. Nghĩa sau là cách dùng ít chặt chẽ hơn, nhưng lại được dùng rộng rãi trong lịch sử tư tưởng – entry byVergilius Ferm
^"Atheism".Oxford Dictionaries. Oxford University Press.Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2013.
^Nielsen 2013Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNielsen2013 (trợ giúp): "Instead of saying that an atheist is someone who believes that it is false or probably false that there is a God, a more adequate characterization of atheism consists in the more complex claim that to be an atheist is to be someone who rejects belief in God for the following reasons ...: for an anthropomorphic God, the atheist rejects belief in God because it is false or probably false that there is a God; for a nonanthropomorphic God ... because the concept of such a God is either meaningless, unintelligible, contradictory, incomprehensible, or incoherent; for the God portrayed by some modern or contemporary theologians or philosophers ... because the concept of God in question is such that it merely masks an atheistic substance—e.g., "God" is just another name for love, or ... a symbolic term for moral ideals."
^Edwards 2005: "On our definition, an 'atheist' is a person who rejects belief in God, regardless of whether or not his reason for the rejection is the claim that 'God exists' expresses a false proposition. People frequently adopt an attitude of rejection toward a position for reasons other than that it is a false proposition. It is common among contemporary philosophers, and indeed it was not uncommon in earlier centuries, to reject positions on the ground that they are meaningless. Sometimes, too, a theory is rejected on such grounds as that it is sterile or redundant or capricious, and there are many other considerations which in certain contexts are generally agreed to constitute good grounds for rejecting an assertion."
^abRowe, William L. "Atheism".Routledge Encyclopedia of Philosophy. Edward Craig (biên tập). Routledge: June 1998.ISBN 0-415-18706-0. 530-534.
^"Definitions: Atheism". Department of Religious Studies, University of Alabama. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2012.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^abOxford English Dictionary (ấn bản thứ 2). 1989.Belief in a deity, or deities, as opposed to atheism
^Drachmann, A. B. (1977) [tái bản không sửa chữa bản năm 1922].Atheism in Pagan Antiquity. Chicago: Ares Publishers.ISBN 0-89005-201-8.[Trong tiếng Anh], "chủ nghĩa vô thần" và "người vô thần" là các từ được tạo từ tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, chúng không phải tiếng Hy Lạp; cách tạo ra chúng không theo cách sử dụng của tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp, người ta nóiatheos vàatheotēs; ứng với các từ này là các từ không gần nghĩa trong tiếng Anh:ungodly vàungodliness. Giống hệt nhưungodly,atheos được dùng để thể hiện sự nguyền rủa nặng nề về đạo đức; đây là cách dùng cổ nhất mà người ta tìm được. Cho đến sau này, người ta mới thấy nó được dùng với một ngữ nghĩa triết học.
^""Atheism"".Encyclopedia Britannica. 1911. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2007.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^Nagel, Ernest (1959). "Philosophical Concepts of Atheism".Basic Beliefs: The Religious Philosophies of Mankind. Sheridan House.I shall understand by "atheism" a critique and a denial of the major claims of all varieties of theism ... atheism is not to be identified with sheer unbelief ... Thus, a child who has received no religious instruction and has never heard about God, is not an atheist – for he is not denying any theistic claims. Similarly in the case of an adult who, if he has withdrawn from the faith of his father without reflection or because of frank indifference to any theological issue, is also not an atheist – for such an adult is not challenging theism and not professing any views on the subject.
^Lowder, Jeffery Jay (1997)."Atheism and Society".Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
^abFlew 1976, tr. 14ff: "In this interpretation an atheist becomes: not someone who positively asserts the non-existence of God; but someone who is simply not a theist. Let us, for future ready reference, introduce the labels 'positive atheist' for the former and 'negative atheist' for the latter."
^abKenny, Anthony (2006). "Why I Am Not an Atheist".What I believe. Continuum.ISBN0-8264-8971-0.The true default position is neither theism nor atheism, but agnosticism ... a claim to knowledge needs to be substantiated; ignorance need only be confessed.
^Baggini 2003, tr. 30–34, "Who seriously claims we should say 'I neither believe nor disbelieve that the Pope is a robot', or 'As to whether or not eating this piece of chocolate will turn me into an elephant I am completely agnostic'. In the absence of any good reasons to believe these outlandish claims, we rightly disbelieve them, we don't just suspend judgement."
^Baggini 2003, tr. 22. "Việc thiếu bằng chứng không phải là cơ sở cho việc treo một niềm tin. Bởi vì khi ta thiếu bằng chứng đầy đủ, ta vẫn có thể có chứng cớ mạnh mẽ hay một lời giải thích tốt hơn nhiều so với các xu hướng khác."
^abSmart, J.C.C. (ngày 9 tháng 3 năm 2004)."Atheism and Agnosticism". Stanford Encyclopedia of Philosophy. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
^Schafersman, Steven D. (tháng 2 năm 1997)."Naturalism is an Essential Part of Science and Critical Inquiry". Conference on Naturalism, Theism and the Scientific Enterprise. Department of Philosophy, The University of Texas. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2011. Revised May 2007
^Hume 1748, Part III: "If we take in our hand any volume; of divinity or school metaphysics, for instance; let us ask, Does it contain any abstract reasoning concerning quantity or number? No. Does it contain any experimental reasoning concerning matter of fact and existence? No. Commit it then to the flames: for it can contain nothing but sophistry and illusion."
^Rendered asAthisme:de Mornay, Philippe (1581).A Woorke Concerning the Trewnesse of the Christian Religion: Against Atheists, Epicures, Paynims, Iewes, Mahumetists, and other infidels [De la vérite de la religion chréstienne (1581, Paris)]. Translated from French to English byArthur Golding &Philip Sidney and published in London, 1587.Athisme, that is to say, vtter godlesnes.
^Sarvepalli Radhakrishnan and Charles A. Moore.A Sourcebook in Indian Philosophy. (Princeton University Press: 1957, Twelfth Princeton Paperback printing 1989) pp. 227–249.ISBN 0-691-01958-4.
^Satischandra Chatterjee, Dhirendramohan Datta (1984).An Introduction to Indian Philosophy . University of Calcutta. tr. 55.
^Joshi, L.R. (1966). "A New Interpretation of Indian Atheism".Philosophy East and West. Quyển 16 số 3/4. tr. 189–206.doi:10.2307/1397540.JSTOR1397540.
^Baggini 2003, tr. 73–74. "Chủ nghĩa vô thần bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại nhưng cho đến cuối thời kỳ Khai sáng mới nổi lên như là một hệ thống niềm tin công khai và được thừa nhận"
^... nullos esse omnino Diagoras et Theodorus Cyrenaicus ... Cicero, Marcus Tullius:De natura deorum. Comments and English text by Richard D. McKirahan. Thomas Library, Bryn Mawr College, 1997, page 3.ISBN 0-929524-89-6
^Bremmer, Jan.Atheism in Antiquity, trongMartin 2006, tr. 14–19
^Một số đoạn trong các tác phẩm của Euhemerus do Ennius dịch ratiếng La Tinh đã được lưu lại trong các văn bản của cácGiáo phụ (ví dụ củaLactantius vàEusebius of Caesarea), các văn bản này đều dựa trên các đoạn cũ hơn trongDiodorus 5,41–46 & 6.1. Các lời chứng, đặc biệt trong ngữ cảnh của các phê phán có tính chất luận chiến, nằm trongCallimachus,Hymn to Zeus 8.
^Theo Dawkins (2006), tr. 103. Dawkins trích dẫn Bell, Paul. "Would you believe it?"Mensa Magazine, UK Edition, tháng 2 năm 2002, tr. 12–13. Phân tích 43 nghiên cứu được thực hiện từ năm 1927, Bell thấy rằng 39 trong số đó ghi nhận một mối quan hệ như vậy, và ông kết luận rằng "học càng cao hoặc càng thông minh, thì càng ít khả năng người ta theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng thuộc bất cứ kiểu nào."
^Wallace, B. Alan Ph.D. (tháng 11 năm 1999)."Is Buddhism Really Non-Theistic?"(PDF). National Conference of the American Academy of Religion lectures. Boston, MA. tr. 8.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.Thus, in light of the theoretical progression from the bhavaºga to the tath›gatagarbha to the primordial wisdom of the absolute space of reality, Buddhism is not so simply non-theistic as it may appear at firstglance.{{Chú thích web}}:line feed character trong|quote= tại ký tự số 211 (trợ giúp)
^Winston, Robert (Ed.) (2004).Human. New York: DK Publishing, Inc. tr. 299.ISBN0-7566-1901-7.Quan điểm phi đức tin đã tồn tại từ hàng thế kỉ. Ví dụ, Phật giáo và Kì-na giáo đã được gọi là các tôn giáo vô thần vì họ không ủng hộ đức tin vào thần thánh.
^"Humanistic Judaism". BBC. ngày 20 tháng 7 năm 2006.Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
^Levin, S. (tháng 5 năm 1995). "Jewish Atheism".New Humanist. Quyển 110 số 2. tr. 13–15.
^"Christian Atheism". BBC. ngày 17 tháng 5 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
^Lyas, Colin (tháng 1 năm 1970). "On the Coherence of Christian Atheism".Philosophy: the Journal of the Royal Institute of Philosophy. Quyển 45 số 171. tr. 1–19.doi:10.1017/S0031819100009578.
^Smith 1979, tr. 275. "Trong số rất nhiều các huyền thoại liên quan đến tôn giáo, không có cái gì lan rộng hơn—hay có hiệu quả tàn phá hơn—là huyền thoại rằng các giá trị đạo đức không thể tách rời khỏi đức tin vào một vị thần linh."
^Trong tác phẩmAnh em nhà Karamazov củaDostoevsky (Quyển 11:Ivan Fyodorovich, Chương 4) có một lập luận nổi tiếng rằngNếu không có Chúa, tất cả mọi thứ đều được phép.: "'Nhưng khi đó thì con người sẽ trở thành cái gì?' Tôi hỏi anh ta, 'không có Chúa và sự sống vĩnh cửu? Khi đó mọi thứ đều hợp lệ, họ có thể làm gì họ muốn?'"
^Đối vớiKant, giả định về Chúa Trời, linh hồn, và tự do thuộc về một mối quan tâm thực tiễn, vì "Đạo đức tự nó tạo nên một hệ thống, nhưng hạnh phúc thì không, trừ khi nó được phân phát chính xác theo tỷ lệ thuận với đạo đức. Tuy nhiên, trong một thế giới có thể hiểu được, điều này khả thi nếu như thế giới nằm dưới quyền lực của một nhà lãnh đạo thông thái. Lý tính buộc chúng ta phải thừa nhận một vị lãnh đạo như vậy, cùng với cuộc sống trong một thế giới như vậy, thế giới mà chúng ta phải xem xét như là cuộc sống tương lai, nếu không thì tất cả các quy tắc đạo đức đều chỉ là những giấc mơ vô ích..." (Phê phán lý tính thuần túy, A811).
^Cohen, M. (2007).101 Ethical Dilemmas (ấn bản thứ 2). Routledge. tr. 184-5.Cohen ghi chú cụ thể là Plato và Aristotle đã đưa ra các lập luận theo hướng ủng hộ chế độ nô lệ
^Moreira-almeida, A. (2006)."Religiousness and mental health: a review".Revista Brasileira de Psiquiatria. Quyển 28. Lotufo Neto, F.; Koenig, H.G. tr. 242–250. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2007.
^Harris, Sam (2005)."An Atheist Manifesto".Truthdig.Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2006.Trong một thế giới bị xé nát bởi sự thiếu hiểu biết, chỉ có những người vô thần là khước từ phủ nhận điều hiển nhiên: Niềm tin tôn giáo khuyến khích bạo lực của con người một cách đáng ngạc nhiện
^Feinberg, John S.;Feinberg, Paul D. (ngày 4 tháng 11 năm 2010).Ethics for a Brave New World.Stand To Reason.ISBN978-1-58134-712-8. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2007.Over a half century ago, while I was still a child, I recall hearing a number of old people offer the following explanation for the great disasters that had befallen Russia: 'Men have forgotten God; that's why all this has happened.' Since then I have spent well-nigh 50 years working on the history of our revolution; in the process I have read hundreds of books, collected hundreds of personal testimonies, and have already contributed eight volumes of my own toward the effort of clearing away the rubble left by that upheaval. But if I were asked today to formulate as concisely as possible the main cause of the ruinous revolution that swallowed up some 60 million of our people, I could not put it more accurately than to repeat: 'Men have forgotten God; that's why all this has happened.'
Zdybicka, Zofia J. (2005)."Atheism"(PDF). Trong Maryniarczyk, Andrzej (biên tập).Universal Encyclopedia of Philosophy. Quyển 1. Polish Thomas Aquinas Association. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
Germani, Alan (ngày 15 tháng 9 năm 2008)."The Mystical Ethics of the New Atheists".The Objective Standard. Quyển 3 số 3. Glen Allen Press.Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
Ledrew, S. (2012). "The evolution of atheism: Scientific and humanistic approaches".History of the Human Sciences. Quyển 25 số 3. tr. 70.doi:10.1177/0952695112441301.
Rosenberg, Alex (2011).The Atheist's Guide to Reality: Enjoying Life Without Illusions. New York: W. W. Norton & Co.ISBN 978-0-393-08023-0
Russell, Paul (ngày 11 tháng 2 năm 2013)."Hume on Religion". Trong Edward N. Zalta (biên tập).Stanford Encyclopedia of Philosophy (ấn bản thứ 2013). Metaphysics Research Lab. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
Secular Web library – Library of both historical and modern writings, a comprehensive online resource for freely available material on atheism.
The Demand for Religion – A study on the demographics of Atheism by Wolfgang Jagodzinski (University of Cologne) and Andrew Greeley (University of Chicago and University of Arizona).