Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Chủ nghĩa trọng thương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Một hải cảng tưởng tượng được lồng ghépbiệt thự Medici, vẽ bởiClaude Lorrain vào khoảng năm 1637, thời kì đỉnh cao của chủ nghĩa trọng thương

Chủ nghĩa trọng thương là một ứng dụng thực hành giả thuyết kinh tế, được sử dụng rộng rãi ở châu Âu từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, thúc đẩy việc chính quyền điều phối nền kinh tế quốc gia với mục đích làm tăng quyền lực nhà nước đó bằng việc làm suy giảm sức mạnh của các nước đối địch. Nó là sự tương đương trong kinh tế củachủ nghĩa chuyên chế trong chính trị.[1] Nó bao gồm nhữngchính sách kinh tế quốc gia nhắm đến tích lũydự trữ tiền tệ thông quacân bằng thương mại dương, đặc biệt trong cácthành phẩm. Chủ nghĩa trọng thương thống trị các cuộc tranh luận và chính sách kinh tế Tây Âu từ thế kỷ thứ 16 đến cuối thế kỷ thứ 18.[2] Chủ nghĩa trọng thương là một nguyên nhân của các cuộc chiến tranh châu Âu thường xuyên và là động lực thúc đẩy bành trướng thuộc địa. Các giả thuyết trọng thương đa dạng về độ phức tạp giữa các học giả và phát triển theo thời gian.

Lịch sử phát triển

[sửa |sửa mã nguồn]

Chủ nghĩa trọng thương được chia thành hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu với những đại biểu nhưWilliam Stafford (1554-1612,người Anh),Thomas Gresham (1519-1579, người Anh) vàGasparo Scaruffi (1519-1584,người Ý) với lý thuyết cân đốitiền tệ, chủ trương tăng sở hữu tiền như một dạng của cải thông qua luật định. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này còn được gọi làchủ nghĩa trọng kim.

Giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ ởthế kỷ 17 với những người đại diện làThomas Mun (1571-1641, người Anh) vàAntoine de Montchrétien (1576-1621,người Pháp) với luận thuyết cân đối thương mại chủ động. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này còn được gọi làchủ nghĩa thặng dư thương mại.

Tuy những nhà hoạt động kinh tế nói trên sống ở các nước khác nhau và không có sự trao đổi gì với nhau nhưng họ đã có những quan điểm trùng hợp. Trường phái này không chỉ biểu hiện qua lý thuyết, mà còn là một phần của truyền thống văn hóa-chính trị.

Chủ nghĩa trọng thương bắt đầu thoái trào từthế kỷ 18. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương không thể đáp lại một cách thuyết phục trước những phê phán đối với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch.Chủ nghĩa trọng nông có cơ sở chính ởPháp là những tư tưởng kinh tế đầu tiên cố gắng phủ nhận chủ nghĩa trọng thương. Và cho đến khikinh tế học cổ điển hình thành rõ ràng nhờAdam Smith, thì chủ nghĩa trọng thương kết thúc, về mặt lý luận. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó tới chính sách kinh tế của các nhà nước thì vẫn còn tiếp tục, thậm chí cho đến tậnthế kỷ 20.

Bối cảnh kinh tế - xã hội

[sửa |sửa mã nguồn]

Đầuthế kỉ 15,Tây Âu vừa thoát ra khỏi thời kìTrung Cổphong kiến, hình thành mộtxã hội chủ yếu vẫn lànông nghiệp. Sản xuất tự cung tự cấp là chính,thương mại chưa phát triển.

Con người đã khám phá ra những vùng đất mới, tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa các khu vực (tìm ra tân thế giới giúp giao thương với phương Đông, chinh phục Mexico mở rộng giao thương vớichâu Mỹ, giao thương choBồ Đào Nha vớiẤn Độ và các nướcNam Á bằng đường biển nhờ cuộc hành trình củaVasco da Gama)

Cuối thế kỉ 15 đầuthế kỉ 16,thương mại bắt đầu phát triển nhờ các nhân tố như: Các phát kiến địa lý tạo điều kiện cho sự hình thành các tuyến đườngvận tải thương mại, sự gia tăngdân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ, làm tăng doanh lợi của các nhà sản xuất và thương gia. Ngoài ra, phải kể đến những nguyên nhân khác như: vai trò của cácthương gia được nâng cao, sự hình thành ngày càng nhiều các quốc gia độc lập cả vềchính trị, vàng bạc từTân thế giới đổ về…

Trong bối cảnh như vậy, một nhóm người (bao gồm thương gia, nhân viênngân hàng, nhân viên Chính phủ và cả một số nhà triết học) đã viết những bài tiểu luận và những cuốn sách nhỏ về thương mại quốc tế. Những tác phẩm đó đã biện hộ cho một trường phái kinh tếtriết học được gọi làchủ nghĩa trọng thương.

Các quan điểm chính

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Một quan điểm chủ đạo của chủ nghĩa trọng thương, cũng là sự thừa nhận truyền thống quân chủ từ thời kỳ tiền trung cổ, xem người cầm quyền là tối cao, là phụ mẫu củadân tộc, người có quyền điều hành các chính sáchkinh tế với mục đích tạo nên sự hùng mạnh của quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương là hệ tư tưởng đầu tiên xác định các chức năng lãnh đạo cho người đứng đầu nhà nước, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cổ xúytinh thần dân tộc trong dân chúng.
  • Chủ nghĩa trọng thương chủ trương chính sáchbảo hộ mậu dịch (chế độthuế quan bảo hộ) nhằm bảo hộ cho giới doanh thương quốc nội trênthị trường nước ngoài và tạo ra những hạn chế đối với giới giao thương ngoại quốc trên thị trường trong nước. Chính sáchbảo hộ mậu dịch làm tăng khả năngcạnh tranh của quốc gia, ưu tiên mở rộng sản xuất các mặt hàngxuất khẩu. Kết quả khả quan của giao thương được đánh giá bằng sự vượt trội lượng hàng xuất đối với lượng hàng nhập, bằng lượng vàng ròng thu được, dẫn đến sự hình thành khái niệm cân đối thương mại chủ động.
  • Những người theo phái trọng thương bị cuốn hút vào việc tích lũy cáckim loại sản xuất tiền làvàngbạc. Vì nguồn cung cấp vàng, bạc có giới hạn nên những người trọng thương tin rằng một quốc gia có thể cải thiện dự trữ vàng của mình từ sự thua thiệt của quốc gia khác, tạo nên của cải và quyền lực cho quốc gia đó.
  • Chỉ chú ý đến xuất khẩu. Họ cho rằng cần tập trung hoàn toàn vào xuất khẩu vì xuất khẩu là nguồn mang lại kim loại quý. Còn nhập khẩu thì rất hạn chế, đặc biệt là các sản phẩm đã hoàn chế và hàng hóa xa xỉ phẩm. Họ bảo vệ chính sách bảo hộ: khuyến khíchxuất khẩu (thông quatrợ giá) và cản trởnhập khẩu (dựa vào thuế quan).
  • Ngoài ra, theo quan điểm của trường phái trọng thương thì muốn gia tăngxuất khẩu để có nhiều kim quý thì phải có nhiều nhân công "Dân số là của cải và sức mạnh của quốc gia" (theoNichobas Barbon), "Quốc gia giàu có nhất phải chăng là quốc gia có nhiều nhân công nhất" (theoJosiah Tucken).

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^editors, Encyclopedia Britannica (2014)
  2. ^"Mercantilism," Laura LaHayeThe Concise Encyclopedia of Economics (2008)
Stub icon

Bài viết liên quan đếnkinh tế học này vẫn cònsơ khai. Bạn có thể giúp Wikipediamở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chủ_nghĩa_trọng_thương&oldid=74214018
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp