Chùa Từ Ân còn có tên làSắc Tứ Từ Ân Tự (敕賜慈恩寺), được xây dựng vàothế kỷ 18 ở khu vực Chợ Đũi,[1] mà vị trí nằm trongCông viên Tao Đàn, thuộcQuận 1,Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam) ngày nay.[2] Khi quânPháp đánh chiếmGia Định, chùa Từ Ân thì bị đốt cháy. Về sau (1870), một ngôi chùa Từ Ân mới lại được dựng lên ở Phú Lâm (thuộcQuận 6,Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) để tiếp nối dòng đạo, đồng thời gìn giữ những hiện vật còn sót lại của ngôi chùa cũ.
Vào khoảng nămGiáp Ngọ (1744), Thiền sưPhật Ý-Linh Nhạc (1725-1821, là người đem chiphái Lâm Tế dòng đạo Bổn Nguyên vàomiền Nam Việt Nam trước tiên),[3] vâng lời thầy theo lớp người lưu dân từĐồng Nai xuống phíaNam. Trên đường đi, nhà sư gặp một tăng sĩ không rõ họ tên, cùng lứa tuổi và họ đã kết thành huynh đệ. Đến nơi ở mới là làng Tân Lộc (có tư liệu viết là làng Hoạt Lộc hay xóm Chợ Đũi), hai nhà sư cùng khai phá rừng và dựng lên một am lá (khoảng năm1744) thờPhật. Vài năm sau, nhà sư vô danh kia tách ra lập am riêng, cách am cũ vài mươimét, để tiện việc tu hành.
Đến nămNhâm Thân (1752), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc tu bổ am lá thành chùa, và đặt tên là chùa Từ Ân, với ngụ ý là "nhờ lòng từ bi và ân huệ của đức Phật mà bá tánh được bình an, tạo được cuộc sống ấm no và hạnh phúc nơi vùng đất mới". Cũng khoảng thời gian đó, nhà sư vô danh cũng tu bổ am lá trước đây thành chùa, và đặt tên làchùa Khải Tường, với ngụ ý là "mở rộng phước lành cho bá tánh".[4] Vì thế khithực dân Pháp tiến chiếm Gia Định, họ gọi chùa Khải Tường làchùa Trước (pagode Avancée) còn chùa Từ Ân làchùa Sau.[5]
TheoĐại Nam nhất thống chí của triềuNguyễn, thì lúc bấy giờ"chùa Từ Ân ở thôn Hòa Hưng, huyện Bình Dương, nhà chùa tráng lệ, cảnh trí u nhã"...[6].
Sau một thời gian hoằng hóa, vị sư trụ trì ở chùa Khải Tường viên tịch, thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc trụ trì luôn cả hai chùa. Do tài đức của thiền sư, mà hai tự viện trở nên có tiếng ở vùngGia Định.[7]
Trong giai đoạn chiến tranh giữaTây Sơn với chúaNguyễn Phúc Ánh, cả hai chùa từng là nơi ở của vị chúa này và đoàn tùy tùng (chùa Từ Ân là nơi dành cho chúa và quan quân, còn chùa Khải Tường là nơi dành cho các phi tần).[8] Về sau nhớ ơn cũ, năm1822,[9] vuaMinh Mạng đã sắc phong chùa Từ Ân là "Sắc Tứ Từ Ân Tự".
NămTân Tỵ (1821), Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc viên tịch tại chùa Từ Ân, sau đó di cốt được đưa vào tháp trong khuôn viên chùa. Nghe tin sư huynh của mình là Thiền sư Phật Ý-Linh Nhạc mất, Thiền sưThiệt Thành-Liễu Đạt (khi ấy đã là Tăng cangchùa Thiên Mụ ởHuế từ năm1817), vội vàng xin vua từ nhiệm để trở về làm trụ trì Từ Ân, tức ngôi chùa cũ của mình. Năm1823, Thiền sư Thiệt Thành-Liễu Đạt tự thiêu vì không muốn sợi dây tình ái trói buộc với một vị Hoàng cô (chị vuaGia Long, pháp danh là Tế Minh-Thiên Nhật), vốn là một cư sĩ đã từng học đạo với sư.
Tiếp nối, Thiền sư Tế Chánh-Bổn Giác lên thay thầy làm trụ trì, sau đó là Thiền sư Tế Tín-Chánh Trực.[10] Trong thời vị sư này làm trụ trì, chùa Từ Ân và chùa Khải Tường đều lâm nạn binh đao bởi quânPháp đến đánh chiếm. Theo tài liệu thì chùa Khải Tường bị quân Pháp chiếm làm đồn; còn chùa Từ Ân thì bị đốt cháy[11] sau khi các nhà sư ở đây rút chạy và "chỉ kịp đem cất giấu một số món đồ, nhờ vậy mà chùa Từ Ân ở gần chợ Gạo (Phú Lâm) ngày nay còn được một số hiện vật kỷ niệm"[12]
Trải bao thăng trầm củalịch sử, nămCanh Ngọ (1870), một ngôi chùa Từ Ân mới đã được dựng lên ở Phú Lâm (thuộcQuận 6,Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) để tiếp nối dòng đạo, đồng thời gìn giữ những hiện vật còn sót lại của ngôi chùa cũ. Hiện còn khá nhiều bức hoành và câu đối từ các nơi đem đến hiến cúng nhân ngày lạc thành chùa đã minh chứng cho điều ấy. Lúc bấy giờ, là thời của Hòa thượng Như Bằng-Thanh Ấn làm trụ trì.
Mặc dù chùa Từ Ân mới có kiến trúc khá khiêm tốn so với trước đây, nhưng bên trong hiện vẫn còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật quý, đó là:
Ngoài ra, ở đây còn có khá nhiều bức hoành phi và câu đối của các chùa từ nhiều nơi dâng tặng nhân ngày lạc thành chùa (1870), v.v...
Vào giai đoạn đầu của cuộc khai phá vùng đấtGia Định, chùa Từ Ân (vàchùa Khải Tường) đã góp phần mang lại sự ổn định và phát triển tín ngưỡngPhật giáo tại vùng đất mới, qua sự có mặt khá sớm và gần như tiêu biểu nhất của mình tại vùng đất này.
Và cũng từ ngôi chùa này, các nhà sư đã đem Phật pháp đi hoằng hóa khắp các nơi, nhưĐồng Nai,Tây Ninh,Thuận Hóa, lục tỉnh,...Nên không lạ gì vào những năm dưới triều vuaGia Long vàMinh Mạng, nhiều vị thiền sư ở đây đã được mời ra kinh đô, được vào cung giảng đạo, được phong chức Tăng cang, được giao trụ trìchùa Thiên Mụ,chùa Giác Hoàng...ởHuế. Có thể kể đến mấy vị như: Thiệt Thành-Liễu Đạt (sau làm Tăng cang chùa Thiên Mụ), Tổ Đạt-Trí Thâm (sau làm trụ trì chùa Khải Tường), Tổ Ấn-Mật Hoằng (sau làm trụ trìchùa Đại Giác ởĐồng Nai), Tổ Tông-Viên Quang (sau làm trụ trìchùa Giác Lâm), Tiên Giác-Hải Tịnh (sau làm Tăng cang chùa Thiên Mụ), v.v...Tất cả cho thấy chùa Từ Ân quả là một "cái nôi", là một "trung tâm Phật giáo" ởGia Định và của lục tỉnh vào buổi ấy...[14].
ỞThành phố Hồ Chí Minh, còn có một ngôi chùa Từ Ân khác, tọa lạc ở số 28-30 đườngHùng Vương, quận 11. Ngôi chùa này được xây dựng vào năm1957, sau đó Hòa thượng Hoằng Tu đã cho trùng tu và mở rộng vào năm1967 và những năm gần đây. Đây là ngôi chùa Phật giáo củangười Hoa, thuộc dòng Tào Động, không phải là ngôi cổ tự đã nói trong bài.[15]