Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Cao Ly

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đừng nhầm vớiCao Câu Ly
Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.(tháng 9/2024) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Cao Ly Quốc
Cao Ly Vương triều
Tên bản ngữ
  • 고려국 (高麗國)
    고려왕조 (高麗王朝)
918–1392
Cờ Vương Thất Cao Ly Cao Ly
Cờ Vương Thất Cao Ly
Quốc Tỷ
Quốc Tỷ
Cao Ly vào năm 1374.
Cao Ly vào năm 1374.
Tổng quan
Thủ đôKhai Thành
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Triều Tiên cổ,Văn ngôn
Tôn giáo
Đạo Phật,đạo Khổng,đạo Lão,Vu giáo
Chính trị
Chính phủQuân chủ chuyên chế
Vua 
• 918–946
Thái Tổ (sáng lập vương triều)
• 949–975
Quang Tông
• 1359–1374
Vũ Tông
• 1389–1392
Thuần Tông (cuối cùng)
Lịch sử
Lịch sử 
900
• Vương Kiến đăng cơ
25 tháng 7 năm 918
(15 tháng 6 năm Mậu Dần) 918
936
993–1019
1231–1270
1251
• Cung Nhượng Vương thoái vị
1392 1392
Tiền thân
Kế tục
Hậu Cao Câu Ly
Tân La
Vương quốc Bột Hải
Nhà Triều Tiên
Một phần củaloạt bài về
Lịch sửTriều Tiên
Cung Gyeongbok, Seoul
Tiền sử
Thời kỳ Trất Văn (Jeulmun)
Thời kỳ Vô Văn (Mumun)
Cổ Triều Tiên?–108 TCN
Vệ Mãn Triều Tiên194–108 TCN
Tiền Tam Quốc300–57 TCN
Phù Dư,Cao Câu Ly,Ốc Trở,Đông Uế
Thìn Quốc,Tam Hàn (,Biện,Thìn)
Tam Quốc57 TCN–668
Tân La57 TCN–935
Cao Câu Ly37 TCN–668
Bách Tế18 TCN–660
Già Da42–562
Nam-Bắc Quốc698–926
Tân La Thống Nhất668–935
Bột Hải698–926
Hậu Tam Quốc892–936
Tân La,Hậu Bách Tế,Hậu Cao Câu Ly,Hậu Sa Bheor
Triều đại Cao Ly918–1392
Triều đại Triều Tiên1392–1897
Đế quốc Đại Hàn1897–1910
Triều Tiên thuộc Nhật1910–1945
Chính phủ lâm thời1919–1948
Phân chia Triều Tiên1945–nay
CHDCND Triều Tiên
Đại Hàn Dân Quốc
1948-nay
Theo chủ đề
Niên biểu
Danh sách vua
Lịch sử quân sự
Cao Ly
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữGoryeo
McCune–ReischauerKoryŏ
IPA[ko.ɾjʌ]

Cao Ly (tiếng Hàn고려;Hanja高麗;RomajaGoryeo;MRKoryŏ), tên đầy đủ làVương quốc Cao Ly, là một vương quốc có chủ quyền ởbán đảo Triều Tiên được thành lập vào năm 918 bởivua Thái Tổ sau khi thống nhất các vương quốc thờiHậu Tam Quốc và bị thay thế bởinhà Triều Tiên vào năm 1392. TênCao Ly, bắt nguồn từ tênCao Câu Ly, đã đượcMarco Polo nhắc đến với tênCauli trong tiếng Ý trước khi thànhCorea rồiKorea, dùng làm tên gọi chính thức ngày nay của bán đảo này trong tiếng Anh. Cao Ly đã mở rộng biên giới vương quốc đến tỉnh Wŏnsan (Nguyên Sơn, 원산, 元山) ngày nay về phía đông bắc (936 - 943) vàsông Áp Lục (Amnok hay Yalu, 압록, 鴨綠) (993) và cuối cùng hầu như toàn bộ bán đảo Triều Tiên (1374).

Cai trị vương quốc Cao Ly là nhà Cao Ly của dònghọ Vương (,,Wang), kinh đô đóng ởKhai Thành (개성,開城,Kaesŏng). Người sáng lập nhà Cao Ly làVương Kiến (Wang Kŏn, 왕건, 王建), tứcvua Thái Tổ vào năm 918. Vương triều này kéo dài 474 năm với nhiều biến cố lịch sử thăng trầm nhưng đã để lại nhiều dấu ấn rất đáng kể trong lòng lịch sử Triều Tiên cùng với sự phát triểnPhật giáo, khoa học quân sự, nghệ thuật. Vua nhà Cao Ly cuối cùng đã bị một vị tướng làLý Thành Quế phế truất vào năm 1392 để lập ranhà Triều Tiên. Đây là Chính phủ đầu tiên thống nhất hoàn toàn dân tộcTriều Tiên kể từ thời kỳCổ Triều Tiên tại hơn 1000 năm trước.

Thành lập

[sửa |sửa mã nguồn]
Vương Kiến (877-943), người sáng lập Vương triều Cao Ly

Nhà Tân La thống nhất Triều Tiên vào năm 668, có công phổ biếnPhật giáo và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ thứ 9, sự tranh giành vương vị đã gây ranội chiến và sự nổi dậy củanông dân ở nhiều nơi. Các địa phương ở xa trung ương trở nên coi thường mệnh lệnh của triều đình. Trước tình thế chính trị như vậy, Chân Thánh nữ vương đã phải tăng cường các biện pháp trấn áp, song điều này lại khiến gia tăng sự chống đối triều đình của các hào tộc có thế lực ở các địa phương. Năm 900, Chân Huyên (Kyŏn Hwŏn, 견훤, 甄萱) tuyên bố thành lập nhàHậu Bách Tế tạiToàn Châu (Chŏnju, 전주, 全州), tây nam bán đảo Triều Tiên. Năm 901, đến lượt Cung Duệ (Kung Ye, 궁예, 弓裔) thành lập nhàHậu Cao Câu Ly tạiKhai Thành. Một lần nữa, bán đảo Triều Tiên lại rơi vào thế ba nước phân tranh mà sử sách gọi là thờiHậu Tam Quốc Triều Tiên.

Vương Kiến vốn là võ tướng của nhàHậu Cao Câu Ly. Trong cuộc chiến giữa nhàHậu Cao Câu Ly và nhàHậu Bách Tế,Vương Kiến đã chỉ huy nhiều trận đánh và giành được nhiều thắng lợi, chứng tỏ tài năng của mình nên được quần thần nhàHậu Cao Câu Ly kính nể. Tuy nhiên, điều này lại làm cho vuaHậu Cao Câu LyCung Duệ lo ngại nên tìm cách trừ khử. Trong khi tự nhận mình làDi Lặc Bồ Tát,Cung Duệ lại huy động sức dân ở quy mô lớn để xây đền đài cung điện cho mình. Điều này khiến cho dân chúng bất mãn, còn quần thần trong triều cũng hình thành phái chống đối.Vương Kiến đã nhân cơ hội này đã làmbinh biến, lật đổCung Duệ, lập nên nhà Cao Ly năm 918.

Sau khi thành lập, nhà Cao Ly tiếp tục cuộc chiến chống nhàHậu Bách TếTân La. Năm 927, Cao Ly bị bại trận dưới tayHậu Bách Tế tại khu vực Đại Khâu (Taegu, 대구, 大邱) ngày nay, rất nhiều tướng lĩnh thân cận củaVương Kiến đã tử trận trong cuộc chiến này. Trong suốt 3 năm tiếp theo,Hậu Bách Tế đã chiếm ưu thế hơnTân La và Cao Ly nhưng sau đó đã bị suy yếu sau trận chiến bại với Cao Ly vào năm 930.

Đến tháng 11 năm 935,Kính Thuận Vương (Kyŏngsun wang, 경순왕, 敬順王) nhàTân La quy thuậnVương Kiến và sáp nhập lãnh thổ Tân La vào Cao Ly. Đến năm 936, sau 18 năm chiến tranh dai đẳng, Cao Ly tiêu diệtHậu Bách Tế, thống nhất bán đảo Triều Tiên.

Hệ thống chính trị

[sửa |sửa mã nguồn]

Mặc dù Cao Ly là nước chư hầu củanhà Tống nhưng danh xưng trong triều đình Cao Ly chiếu theo hệ thống hoàng triều nhưnhà Tống chứ không phải là vương triều. Kinh đôKhai Thành được gọi là "hoàng đô" (hwangdo, 황도, 皇都), kinh thành là "hoàng thành" (hwangsŏng, 황성, 皇城). Cách xưng hô khác như "bệ hạ" (pyeha, 폐하, 陛下), "thái tử: (t'aeja, 태자, 太子), "thái hậu" (t'aehu, 태후, 太后) và sắc lệnh của nhà vua được gọi là chiếu (詔) hoặc sắc (勅) càng khẳng định giả thiết Cao Ly dùng danh xưng theo hệ thống hoàng triều. Tuy nhiên, thường thì nhà Cao Ly không gọi vua của mình là "hoàng đế" như các vuaTrung Quốc mà chỉ gọi là "đại vương" (taewang, 대왕, 大王). Chỉ đôi khi, họ mới gọi vua là "hoàng đế" (hwangje, 황제, 皇帝) hoặc "Hải Đông thiên tử" (Haedong ch'ŏnja, 해동천자, 海東天子). Sau khiMông Cổ xâm lăng Cao Ly, các danh xưng này bị ngườiMông Cổ cấm sử dụng.

Để củng cố quyền lực của triều đình trung ương,Quang Tông (Kwangjong, 광종, 光宗), vị vua thứ tư, ban hành một loạt các bộ luật trong đó có luật giải phóng nô lệ vào năm 958, luật thiết lập chế độ thi tuyển nhân tài làm quan.Quang Tông còn tự xưng mình làhoàng đế, độc lập với các nước khác cùng thời.

Vị vua thứ năm, vuaCảnh Tông (Kyŏngjong, 경종, 景宗) đã tiến hành chính sách cải cách quyền sở hữu ruộng đất gọi làĐiền sài khoa (Chŏnsigwa, 전시과, 田柴科). Còn vị vua thứ sáu, vuaThành Tông (Sŏngjong, 성종, 成宗) đã tiến hành bổ nhiệm các quan lại tại các địa phương, những nơi trước đây do các hào trưởng kế vị nhau nắm quyền. Từ năm 993 đến năm 1019, cuộc chiến tranh Cao Ly - Khiết Đan đã tàn phá vùng biên giới phía bắc Cao Ly.

Những cải cách này đã làm tăng đáng kể quyền lực của triều đình. Đến đời vuaVăn Tông (Munjong, 문종, 文宗), triều đình trung ương đã thâu tóm hoàn toàn quyền lực của các hào trưởng địa phương.Văn Tông và các vua về sau đề cao tầm quan trọng của chính quyền dân sự hơn quân sự, do đó có thái độ trọng dụng các quan văn hơn là các quan võ.

Chiến tranh và bất ổn nội

[sửa |sửa mã nguồn]

Cuộc xâm lăng củaKhiết ĐanNữ Chân

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chiến tranh Khiết Đan-Cao Ly

Từ năm 993 đến năm 1019, Cao Ly vàKhiết Đan xung đột liên tục ở vùng biên giới.

Năm 993, khoảng 6 vạn quânKhiết Đan đã tấn công xâm lược khu vực biên giới Tây Bắc của Cao Ly. Tuy nhiên, sau cuộc thương thuyết của sứ thần Cao Ly làTừ Hy (Sŏ Hŭi, 서희, 徐熙), ngườiKhiết Đan chấp nhận rút quân và nhường vùng lãnh thổ phía đôngsông Áp Lục cho Cao Ly, đổi lại Cao Ly phải đồng ý từ bỏ liên minh vớinhà Tống. Tuy nhiên, Cao Ly không hoàn toàn tuân thủ hòa ước, họ vẫn tiếp tục bang giao vớinhà Tống, củng cố vị thế của mình bằng cách xây dựng thành trì tại các vùng lãnh thổ mới giành được ở biên giới phía bắc.

Trong lúc đó, năm 1009, tướngKhang Triệu (Kang Cho, 강조, 康兆) của Cao Ly đã thực hiện một cuộc binh biến chống lạivua Mục Tông (Mokchong, 목종, 穆宗), giết chết nhà vua và áp đặt quân luật lên triều đình. Nhân lúc nội bộ Cao Ly đang tranh giành quyền lực, 40 vạn quânKhiết Đan lần nữa mở cuộc tấn công xâm lược Cao Ly.Khang Triệu đã thống lĩnh quân đội Cao Ly chặn đứng quân xâm lượcKhiết Đan cho đến khi ông bị ngườiKhiết Đan bắt được và xử tử.Vua Hiển Tông (Hyŏnjong, 현종, 顯宗) buộc phải bỏ kinh thành tạm thời chạy vềLa Châu (Naju, 나주 hay 라주, 羅州). Nhận thấy không thể thiết lập được chỗ đứng trên lãnh thổ Cao Ly và lo sợ bị phản công, quânKhiết Đan buộc phải rút lui.

Năm 1018, ngườiKhiết Đan lần thứ ba xâm lược Cao Ly với 10 vạn quân. Tại sông Hưng Hải Tân (Hŭnghaejin, 흥해진, 興海津), tướngKhương Hàm Tán (Kang Hamch'an, 강함찬, 姜邯贊) hạ lệnh xây đập chặn dòng sông, khi quânKhiết Đan vượt sông đến giữa dòng thì ông ra lệnh phá đập để nước sông nhấn chìm phần lớn quânKhiết Đan. Thiệt hại khi qua sông khá lớn cộng thêm việc tướng Khương Hàm Tán tổng tấn công vào lực lượng còn lại của quânKhiết Đan dẫn đến kết quả chỉ còn trơ trọi vài nghìn quânKhiết Đan sống sót tháo chạy về nước sau thảm bại tạiQuy Châu (Kwiju, 귀주, 龜州) một năm sau đó.

Trong khi đó, tộc ngườiNữ Chân ở phía Bắc - trước đây luôn thần phục và cống nạp cho Cao Ly - nay phát triển thành một thế lực mạnh và thống nhất dưới trướng của dòng họHoàn Nhan (Wanan, 完颜). Họ bắt đầu tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Cao Ly -Nữ Chân và cuối cùng, tấn công xâm lược Cao Ly.

Năm1107, tướngDoãn Quán (Yun Kwan, 윤관, 尹瓘) thống lĩnh một đạo quân khoảng 17 nghìn người mới thành lập mang tênBiệt Vũ Ban (Pyǒlmuban, 별무반, 別武班) tấn công ngườiNữ Chân. Cuộc chiến đã kéo dài trong nhiều năm và kết quả cuối cùng người Nữ Chân bị đánh bại và đầu hàng Doãn Quán. Để đánh dấu chiến thắng này,Doãn Quán cho xây dựng chín pháo đài ở phía đông bắc biên giới Cao Ly -Nữ Chân được gọi làĐông Bắc Cửu Thành (Tongbuk Kusŏng, 동북9성, 東北九城). Tuy nhiên, năm1108, tân vương của Cao Ly,vua Duệ Tông (Yejong, 예종, 睿宗) ra lệnh cho Doãn Quán rút quân. Vì sự ngấm ngầm hãm hại và dèm pha của phe đối lập trong triều, ông bị bãi chức. Song song đó, phe đối lập còn đấu tranh đòi trả lại chín thành mới trên đất mà Doãn Quán vừa đoạt được cho ngườiNữ Chân.

Tranh giành quyền lực

[sửa |sửa mã nguồn]

Từ đời vua Văn Tông đến đời vua thứ 17, vuaNhân Tông, đều tấn cung hậu, phi từ dòng họ Lý ở Nhân Châu (Inju Yissi, 인주 이씨, 仁州李氏). Vì vậy, cuối cùng dòng họ Lý đã thâu tóm quyền hành trong tay, lấn át cả nhà vua. Hậu quả của việc này là cuộc binh biến củaLý Tư Khiêm (Yi Chagyŏm, 이자겸, 李資謙) vào năm 1126. Tuy cuộc binh biến thất bại nhưng quyền hành của nhà vua cũng trở nên suy yếu sau đó. Triều đình Cao Ly ngày càng sa vào các cuộc tranh chấp, bè đảng giữa các quan lại, quý tộc.

Năm 1135, nhà sưDiệu Thanh (Myo Ch'ŏng, 묘청, 妙淸) thuyết phục nhà vua dời kinh đô về Tây Kinh (Sŏgyŏng, 서경, 西京 - tứcBình Nhưỡng ngày nay). Đề xuất này đã phân hóa triều đình Cao Ly thành hai phe đối nghịch nhau: phe ủng hộ dời đô về Tây Kinh và bành trướng thế lực sangMãn Châu do Diệu Thanh cầm đầu; phe phản đối doKim Phú Thức (Kim Pusik, 김부식, 金富軾) (tác giả củaTam quốc sử ký) cầm đầu, muốn giữ nguyên như hiện tại. Diệu Thanh đã thất bại trong việc thuyết phục nhà vua dời đô nên bỏ lênTây Kinh và nổi loạn chống lại triều đình trung ương, thành lập nước Đại Phương (Taebang, 대방, 大方). Vương quốc này tồn tại không lâu và người lãnh đạo nó - Diệu Thanh - cũng bị giết sau đó.

Năm 1170, một nhóm võ quan được lãnh đạo bởiTrịnh Trọng Phu (Chŏng Chungbu, 정중부, 鄭仲夫),Lý Nghĩa Phương (Yi Ŭibang, 이의방, 李義方) vàLý Cao (Yi Ko, 이고, 李高) thực hiện một cuộcbinh biến, phế vuaNghị Tông (Ŭijong, 의종, 毅宗) và đưa vuaMinh Tông (Myŏngjong, 명종, 明宗) lên ngôi. Quyền lực thật sự nằm trong tay các võ quan - những kẻ kế tiếp nhau thống lĩnh lực lượng cấm quânĐô Phòng (Tobang, 도방, 都房) nhằm khống chế nhà vua, bắt đầu thời kỳ các võ quan thao túng chính quyền. Năm 1179, viên tướng trẻKhánh Đại Thăng (Kyŏng Taesŭng, 경대승, 慶大升) nắm quyền và ông bắt đầu những nỗ lực khôi phục lại toàn quyền cho nhà vua cũng như thanh lọc nạn tham nhũng trong triều.

Tuy nhiên, không bao lâu sau ông qua đời vào năm 1183 và người thay ông là tướngLý Nghĩa Mẫn (YiŬi-min, 이의민, 李義旼). Vào năm 1197, một số võ quan có tư tưởng bảo thủ do tướngThôi Trung Hiến (Ch'oe Ch'unghŏn,최충헌, 崔忠獻) cầm đầu đã ám sát Lý Nghĩa Mẫn cùng ba người con của ông, giành quyền lực về tayThôi Trung Hiến. Liên tục trong suốt 61 năm, gia tộc họ Thôi hoàn toàn lũng đoạn chính trường Cao Ly, biến các vua Cao Ly trở thành những ông vua bù nhìn. "Triều đại" của họ Thôi bắt đầu từ Thôi Trung Hiến; sau đó là con trai của ông,Thôi Vũ (Ch'oe U, 최우, 崔瑀); cháu traiThôi Hàng (Ch'oe Hang, 최항, 崔沆) và chắtThôi Nghị (Ch'oe Ŭi, 최의, 崔竩). Để thâu tóm quyền lực,Thôi Trung Hiến phế bỏ vua Minh Tông và lập vuaThần Tông (Sinjong, 신종, 神宗). Tuy nhiên, sau khi vua Thần Tông qua đời, Thôi lại tiếp tục phế lập hai vị vua nữa (vuaHy Tông -Hŭijong, 희종, 熙宗 và vuaKhang Tông -Kangjong, 강종, 康宗) cho đến khi ông lập đượcCao Tông (Kojong, 고종, 高宗) là một ông vua dễ bảo.

Kháng chiến chống Mông Cổ

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Mông Cổ xâm lăng Triều Tiên

Năm 1231, Đại HãnOa Khoát Đài củaMông Cổ xua quân xâm lược Cao Ly, đây là một phần trong kế hoạch bình định khu vực Đông BắcTrung Quốc. Triều đình Cao Ly buộc phải chạy rađảo Giang Hoa nằm trongvịnh Kinh Kỳ (Kyŏnggi, 경기, 京畿) vào năm 1232. Thừa tướng Thôi Vũ, thống lĩnh quân đội Cao Ly, đã kiên cường tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược. Triều đình Cao Ly đã kháng chiến trong gần 30 năm nhưng cuối cùng phải xin nghị hòa vào năm 1259.

Trong khi đó, từ năm 1231 đến 1259 người Mông Cổ nhiều lần mở chiến dịch tấn công và tàn phá nhiều khu vực thuộc các đạoKhánh Thượng (Kyŏngsang, 경상, 慶尙) vàToàn La (Chŏlla, 전라, 全羅). Có 6 đợt đợt tấn công chính diễn ra vào các năm 1231, 1232, 1235, 1238, 1247, 1253; từ năm 1253 đến 1258 quânMông Cổ dưới sự chỉ huy củaJalairtai (Xa La Thái - 车罗大 hoặc Trác Khắc Nhi Đái - 札克儿带) đã mở bốn đợt tấn công liên tiếp có tính chất hủy diệt nhằm vào Cao Ly trong chiến dịch quân sự giành chiến thắng chung cuộc cho ngườiMông Cổ đối với Cao Ly. Chiến dịch này đã gây ra sự tàn phá, đau thương và chết chóc kinh hoàng cho thường dân trên khắpbán đảo Triều Tiên, để rồi cuối cùng triều đình Cao Ly phải chấp nhận đầu hàng vào năm 1259.

Nhân dân Cao Ly đã kháng cự rất dũng cảm và kiên cường, bản thân triều đình Cao Ly đóng ở Giang Hoa cũng nỗ lực củng cố thành lũy. Trên chiến trường, quân Cao Ly cũng đã giành được nhiều chiến thắng nhưng họ không đủ sức chống đỡ nhiều cuộc xâm lăng ồ ạt của kẻ thù quá mạnh. Năm 1236, vua Cao Tông ban lệnh biên soạn lại bộBát vạn đại tạng kinh - vốn đã bị phá hủy khi quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1232. Bộkinh Phật này phải mất 15 năm mới hoàn thành bản khắc trên 81 nghìn tấm gỗ và vẫn còn được bảo tồn đến ngày nay. Tháng 3 năm 1258, Tể Tướng Thôi Nghị bị Kim Tuấn (Kim Chun, 김준, 金俊) ám sát. Chế độ độc tài quân sự của dòng họ Thôi chấm dứt và nhóm quan văn chủ hòa vớiMông Cổ nắm lấy quyền lực. Kết quả, nhóm quan văn cử sứ giả đến cầu hòa với quânMông Cổ và một hòa ước được ký kết giữa đế quốc Mông Cổ và Cao Ly thừa nhận sự thống trị của người Mông Cổ đối với Cao Ly. Tuy nhiên, một số quan võ không chịu đầu hàng, họ khởi binh chống lại triều đình và lập căn cứ kháng chiến trên các hòn đảo ven biển phía Nam củabán đảo Triều Tiên, sự kiện này được gọi làCuộc khởi nghĩa Tam Biệt Sao (1270-1273) (Sambyŏlch'o, 삼별초, 三別抄).[1]

Hòa ước với Mông Cổ vẫn cho phép Cao Ly giữ chủ quyền và văn hóa truyền thống của mình - ngụ ý Cao Ly không phải chịu một sự đô hộ trực tiếp của ngườiMông Cổ.[2] Tuy nhiên, sau cuộc xâm lăng,Mông Cổ đã sáp nhập các tỉnh phía Bắc Cao Ly vào lãnh thổ đế quốc và lập thành hai huyện. Ký xong hòa ước với Cao Ly, ngườiMông Cổ - sau này lànhà Nguyên ở Trung Quốc - dự định liên minh quân sự với Cao Ly để chinh phụcNhật Bản, dùng Cao Ly làm bàn đạp và làm nguồn hỗ trợ tài lực cho cuộc chiến. Năm 1274 và 1281, quânNguyên vượt biển xâm lăngNhật Bản nhưng tất cả đều thất bại do những trận bão biểnthần phongKamikaze-神風 dữ dội cũng như sức kháng cự mãnh liệt của quânNhật, đã gây nhiều thiệt hại nặng nề cho quânNguyên.

Bắt đầu từ triều vuaNguyên Tông (1260-1274) (Wŏnjong, 원종, 元宗), Cao Ly trở thành một thuộc quốc củanhà Nguyên. Dưới triều Nguyên Thế TổHốt Tất Liệt (1260-1294), Cao Ly đã sai sứ cống nạp chonhà Nguyên tổng cộng 36 lần.[3] Nhà Cao Ly phải chịu sự khống chế củanhà Nguyên trong gần một thế kỷ, mãi đến khiCung Mẫn Vương (Kongmin wang, 공민왕, 恭愍王) lên nắm quyền vào năm 1350 và bắt đầu bài trừ những ảnh hưởng củanhà Nguyên. Kể từ thập niên 1350, Cao Ly đã giành lại được độc lập cho mình.

Nỗ lực cải cách cuối cùng

[sửa |sửa mã nguồn]
Lãnh thổ Cao Ly năm 1374

LúcCung Mẫn Vương lên ngôi, Cao Ly vẫn còn chịu ách thống trị củaNhà Nguyên. Chính vì vậy cũng giống như các vua khác của Cao Ly trong thời kỳ này, trước khi lên ngôi Cung Mẫn Vương phải sống ở Trung Quốc từ năm 1341 đến 1351 như một con tin và sau khi lên ngôi ông không được phép đặt miếu hiệu. Ông cũng buộc phải kết hôn với một công chúaMông Cổ, tứcVương hậu Lỗ Quốc sau này(Noguk Taejang Kongju, 노국대장공주, 魯國大長公主, Lỗ Quốc Đại Trường Công chúa). Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ 14, nhà Nguyên bắt đầu đi vào con đường suy vong và bịnhà Minh đánh đuổi khỏiTrung Nguyên vào năm 1368. Cung Mẫn Vương đã nhân cơ hội để cải tổ lại triều đình và thanh trừ mọi ảnh hưởng củanhà Nguyên lên Cao Ly.

Hành động đầu tiên ông là cho bãi chức tất cả những quần thần văn võ trong triều có tư tưởng thânnhà Nguyên. Sau đó Cung Mẫn Vương hướng đến các vùng lãnh thổ của Cao Ly ở phía Bắc, nơi mà quânNguyên đã chiếm đóng và biến thành hai phủ của đế quốc Nguyên:Song Thành (Ssangsŏng Ch'onggwanbu, 쌍성총관부, 雙城摠管府,Song Thành Tổng quản phủ) vàĐông Ninh (Tongnyŏngbu, 동녕부, 東寧府,Đông Ninh phủ) - tương ứng với vị trí của hai tỉnhBắc HamgyongBắc Pyongan ngày nay. Quân Cao Ly nhanh chóng tái chiếm hai phủ này nhờ vào sự quy hàng củaLý Tử Xuân (Yi Cha-ch'un, 이자춘, 李子春) - một viên tiểu tướng người Cao Ly phục vụ trong hàng ngũ quân Nguyên tại Song Thành - và con trai ông taLý Thành Quế (Yi Sŏnggye, 이성계, 李成桂). Tiếp theo đó, tướng Lý Tử Xuân cùng với tướng Trì Long Thụ (Chi Yongsu, 지용수, 篪龍樹) chỉ huy một đợt tấn công vàoLiêu Dương. Năm 1365, Vương hậu Lỗ Quốc qua đời trong khi sinh nở khiến Cung Mẫn Vương suy sụp, ông không màng gì đến chính sự và giao phó hoàn toàn việc nước cho nhà sư Tân Đôn (Sin Ton, 신돈, 辛旽). Tuy nhiên chỉ sau sáu năm, Tân Đôn bị mất chức. Cuối cùng vào năm 1374, Cung Mẫn Vương bị một người tình nam của mình giết chết. Cái chết của Cung Mẫn Vương đã làm tiêu tan mọi mơ ước của ông và đẩy Cao Ly vào con đường sụp đổ.

Đối ngoại

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 962, Cao Ly bắt đầu thiết lập quan hệ với triều đạinhà Tống. Trên thực tế nhà Tống hoàn toàn không có quyền thống trị đối với Cao Ly, và Cao Ly gửi triều cống chủ yếu là vì lợi ích thương mại.[4] Sau đó, Cao Ly cũng thiết lập quan hệ triều cống trên danh nghĩa vớiLiêuKim. Nhà Hán học Hans Bielenstein mô tả bản chất của mối quan hệ triều cống trên danh nghĩa giữa Cao Ly với các triều đại ởTrung Quốc:[5]

Ngũ Đại, Tống, Liêu và Kim đều thích giả vờ rằng Cao Ly là một chư hầu triều cống. Trên thực tế điều này là hoàn toàn không chính xác. Ngũ Đại và nhà Tống không có biên giới chung với Cao Ly và không có cách nào, ngay cả khi họ có nguồn lực về quân sự, để khẳng định bất kỳ quyền lực thống trị nào đối với Cao Ly. Các cuộc xâm lược của người Liêu vào Cao Ly từ năm 993 đến năm 1020 đã bị nhân dân Triều Tiên đẩy lùi thành công. Kim không có nỗ lực đáng kể nào nhằm chống lại Cao Ly...

Cần nhắc lại, Cao Ly không phải là một chư hầu với nhiệm vụ triều cống cho Ngũ đại, Tống, Liêu và Kịm. Mặc dù là nước nhỏ hơn, Cao Ly vẫn có thể chống lại các cuộc xâm lược của Liêu và Kim, và không cần phải cầu xin sự hòa bình. Điều này đòi hỏi chính sách ngoại giao khôn khéo và sự xoa dịu tối thiểu... Cao Ly đã thành công trong việc giữ quyền tự chủ của mình cho đến khi đế quốc Mông Cổ ra đời.

Diệt vong

[sửa |sửa mã nguồn]

Đến cuối thế kỷ 14, sau khinhà Nguyên bịnhà Minh đánh đuổi khỏiTrung Quốc, triều đình Cao Ly, dưới triều U Vương (U-wang, 우왕, 禑王) (con trai củaCung Mẫn Vương với một nữ nô), chia làm hai phe với hai đường lối đối ngoại trái ngược nhau: phe theonhà Minh do tướngLý Thành Quế đứng đầu và phe theonhà Nguyên do Tể tướngThôi Vinh (Ch'oe Yŏng, 최영, 崔榮) đứng đầu. Khi một sứ thần củanhà Minh đến Cao Ly năm 1388 (nămU Vương thứ 14) để đòi lại một phần quan trọng của lãnh thổ phía bắc Cao Ly,Thôi Vinh liền chớp lấy cơ hội này hạ lệnh tấn công cướp lấybán đảo Liêu Đông (lâu nay Cao Ly luôn tự nhận mình có quyền thừa kế trực tiếp của vương quốcCao Câu Ly xưa; vì vậy họ xem phần đất củaCao Câu Ly cũ tạiMãn Châu cũng là đất của Cao Ly).

Lý Thành Quế được chọn là người chỉ huy chiến dịch này; nhưng sau đó Lý nổi loạn, không phục tùng mệnh lệnh. Ông dẫn quân về kinh đôKhai Thành và thực hiện một cuộcđảo chính, lật đổ U Vương và người kế vị của ông ta làXương Vương (Ch'ang wang, 창왕, 昌王) (1388) và dùng vũ lực đưa một nhân vật thuộc hoàng tộc tên là Vương Dao (Wang Yo, 왕요, 王搖) lên ngôi lấy hiệu làCung Nhượng Vương (Kongyang wang, 공양왕, 恭讓王). Sau đó cả U Vương và Dương Vương đều bị giết chết sau một nỗ lực không thành nhằm giành lại quyền lực đã mất. Cuối cùng, năm 1392, Lý Thành Quế lật đổ Cung Nhượng Vương, đày ông ta đếnNguyên Châu (Wŏnju, 원주, 原州) và tiếm lấy ngôi vua, thành lậpnhà Triều Tiên. Nhà Cao Ly chính thức cáo chung sau gần 5 thế kỷ cầm quyền.

Giao thương thời Cao Ly

[sửa |sửa mã nguồn]

Tình hình giao thương nhìn chung phát đạt và nhộn nhịp dưới thời vương triều Cao Ly. Cảng thông thương chính của Cao Ly vào thời kỳ đầu là Bích Lan Độ (Pyŏngnando, 벽란도, 碧瀾渡) một cảng sông nằm trên một hòn đảo của sông Lễ Thành (Ryesŏng, 례성, 禮成), gần kinh đôKhai Thành của Cao Ly:

TTGiao thương vớiNhập khẩuXuất khẩu
1Nhà TốngLụa, ngọc trai, chè, gia vị, dược phẩm, sách, nhạc cụVàng bạc, nhân sâm, đá hoa, giấy, mực
2Nhà LiêuNgựa, cừu, lụa chất lượng thấpKhoáng sản, vải sợi bông, đá hoa, mực, giấy, nhân sâm
3Nhà KimVàng, ngựa, vũ khíBạc, lụa, vải sợi bông
4Nhật BảnThủy ngân, khoáng sảnNhân sâm, sách
5Nhà AbbasThủy ngân, gia vị, ngà voiVàng bạc

Văn hóa

[sửa |sửa mã nguồn]

Bát vạn Đại tạng kinh

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Bát vạn đại tạng kinh

Bát vạn đại tạng kinh (P'alman Taejanggyŏng, 팔만대장경, 八萬大藏經) hay Cao Ly đại tạng kinh (Koryŏ Taejanggyŏng, 고려 대장경, 高麗大藏經) là bộ kinhTam tạng với khoảng 80.000 bài kinhPhật. Bộ kinh này được bảo tồn tại chùa Hải Ấn (Haeinsa, 해인사, 海印寺), tỉnhKhánh Thượng Nam (Kyŏngsangnam-to, 경상남도, 慶尙南道) -Hàn Quốc. Được biên soạn năm 1251 bởivua Cao Tông trong một nỗ lực dùngđạo Phật để đấu tranh thoát khỏi sự xâm lăng của ngườiMông Cổ. Bộ kinh được giữ sạch sẽ bằng cách phơi khô ngoài trời hằng năm.

Nghệ thuật

[sửa |sửa mã nguồn]

Men ngọc bích Cao Ly

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Gốm sứ Triều Tiên
Lư hương ngọc bích, một trong nhữngBáu vật Quốc gia của Hàn Quốc.

Đồ gốm Cao Ly được một số người cho rằng là loại gốm cầu kỳ và tỉ mỉ nhất trong lịch sử Triều Tiên. Hoa văn hình chữ triện, các kiểu trang trí hình lá cây, những dãi bông hoa cuộn tròn, những bảng dài hình ô van, côn trùng và cá được cách điệu và các mẫu khắc chạm bắt đầu xuất hiện tại thời kỳ này. Men thường có màu ngọc bích với nhiều tông khác nhau, với men có màu nâu đến màu gần như đen được sử dụng cho đồ gồm bằng đất sét có pha đá và vật dụng để chứa. Nước men ngọc bích có thể được tráng một lớp gần như trong suốt để lộ ra nền đen và trắng ở bên dưới.

Trong khi các dạng thường thấy là bình vai rộng, chén và tô cạn, hộp đựng đồ trang điểm cao cấp trang trí bằng men ngọc bích và tách trà tráng men nhỏ, đồ gốm dành chođạo Phật có các loại bình hìnhquả dưa, chén trà hình hoa cúc với mẫu cấu trúc đẹp mắt đứng trên đài sen và hoa sen. Bát ăn xin có đường viền cong bên trong cũng cho thấy sự tương đồng với đồ dùng kim loại Triều Tiên. Tách uống rượu thường có chân cao gắn trên đế hình đĩa.

Kỹ thuật làm gốm

[sửa |sửa mã nguồn]
Ấmmenlam hìnhrùa đầurồng thời Cao Ly

Gốm có lõi rắn chắc bằng thạch gốm là một trong những thành phần then chốt; tuy vậy không nên nhầm lẫn với đồ sứ. Phần lõi ítsét, giàuthạch anhkali, gần như đồng nhất với thành phần của gốmviệt (Yueh - 越)Trung Quốc, do đó, nhiều học giả cho rằng đây là xuất xứ của loại menngọc bích Triều Tiên. Men là loại men tro với thuốc màu sắt, được đốt yếm khí trong một lò nung 'rồng' kiểuTrung Quốc cải tiến. Màu lam đặc thù của men Triều Tiên được hình thành từ thành phần sắt trong nước men với một lượng rất nhỏ tạp chất Titan, đã điều chỉnh màu sắc ngả sangxanh lá cây, như có thể thấy trong đồ gốmviệt củaTrung Quốc. Tuy nhiên, những người thợ gốm Cao Ly đã đưa đồ gốm Cao Ly đi theo một hướng khác so với các bậc tiền bốiTrung Quốc; thay vì chỉ dựa vào duy nhất các mẫu được khắc vào lớp men trong, cuối cùng họ phát triển kỹ thuật thượng cam (sanggam, 上甘) dát màu đen (ma-nhê-tít) và trắng (thạch anh) để tạo nên sự tương phản đậm nét với nước men. Nhiều học giả cho rằng kỹ thuật này được phát triển như là một bộ phận của kỹ thuật khắc dát truyền thống trong gia công kim loại và tranh sơn mài củaTriều Tiên, và cũng từ sự không thỏa mãn với hiệu ứng cận quan khi khắc dát dưới một lớp men ngọc bích dày.[6]

Khoa học kỹ thuật

[sửa |sửa mã nguồn]
Jikji,Các bài giảng chọn lọc của các Phật hữu và thiền sư, quyển sách in bằng máy in kim loại được biết đến sớm nhất vào năm 1377.Thư viện quốc gia Paris.
Bài chi tiết:Khoa học kỹ thuật Triều Tiên

Vào năm 1234 máy in bằng cơ cấu kim loại chuyển động đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi Thôi Duẫn Nghi (Ch'oe Yun-ŭi, 최윤의, 崔允儀) vào thời Cao Ly. Quyển sách "Tường định cổ kim lễ văn" (Sangjŏng Kogŭm Yemun, 상정고금예문, 詳定古今禮文) - sách hướng dẫn về lễ nghi xưa và nay - được in bằng khuôn kim loại di động vào năm 1234. Nền kỹ thuật Triều Tiên tiến một bước dài ở triều đại Cao Ly và có quan hệ mật thiết vớinhà Tống. Ở triều đại này, kỹ thuật làm giấy và gốm sứ, nay đã mai một, bắt đầu được áp dụng để sản xuất quy mô.

Vào thời thoái triều, Cao Ly đã gần hoàn chỉnh loại súng thần công lắp trên thuyền. Vào năm 1356 những thí nghiệm sơ bộ đã được tiến hành với vũ khí dùng thuốc súng bắn ra đạn gỗ hay kim loại. Vào năm 1373 thí nghiệm với tên lửa vàống phóng lửa có thể là dạng sơ khai củahỏa xa đã được phát triển và lắp đặt trên các thuyền chiến của Triều Tiên. Chủ trương lắp đặt súng thần công và những vũ khí dùng thuốc súng khác đã tiếp nối tốt vào thờinhà Triều Tiên và vào khoảng năm 1410, hơn 160 thuyền chiến của Triều Tiên đã được lắp súng thần công. Thôi Mậu Tuyên (Ch'oe Musŏn, 최무선, 崔茂宣), một nhà phát minh Triều Tiên thời trung cổ, nhà khoa học và tướng lĩnh quân đội lần đầu tiên đã giới thiệu nhiều ứng dụng rộng rãi của thuốc súng cho Triều Tiên và chế tạo nhiều loại vũ khí dùng thuốc súng.

Nho giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Nho giáo Triều Tiên

Vua Quang Tông (Kwangjong, 광종, 光宗), người đã cho thành lập khoa cử (kwagŏ, 과거, 科擧) - một trung tâm khảo thí quốc gia - vàvua Thành Tông (Sŏngjong, 성종, 成宗) là những vị vua chủ chốt đã chính thức hóaNho giáo. Vua Thành Tông cho thành lập Quốc tử giám (Kukchagam, 국자감, 國子監), là một cơ quan giáo dục cao nhất của nhà Cao Ly. Việc truyền báNho giáo được tạo điều kiện dễ dàng hơn sau khi Thành quân quán (Sŏnggyun'gwan, 성균관, 成均館) hay Thái học (T'aehak, 태학, 太學) được thành lập vào năm 1398 - đây là một học viện với chương trình giảng dạy vềNho giáo - và một thái miếu trong lâu đài, nơi nhà vua thờ phụng tổ tiên.

Phật giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Phật giáo Triều Tiên trở thành quốc giáo thời Cao Ly (918-1392)
Bức họaQuán Thế Âm thời Cao Ly vào năm 1310.

Thoạt đầu, pháiThiền tông (Sŏn, 선, 善) mới bị các phái kinh điển hiện hữu xem là tông phái cấp tiến và nguy hiểm mới nổi lên. Do đó, những người khai sáng các tu viện "cửu sơn - 九山" gặp phải sự chống đối quyết liệt, bị trấn áp bởi uy thế từ lâu trong triều đình của pháiGiáo (Kyo, 교, 教). Sự tranh chấp xảy ra sau đó tiếp diễn gần suốt thời nhà Cao Ly, nhưng dần dần lý luận củaThiền tông về sự sở hữu của chân truyền giác ngộ đã giành được quyền hành cao hơn. Địa vị có được vào giai đoạn sau củaThiền tông nói chung là nhờ vai trò to lớn từ những nỗ lực của nhà sưTri Nột (Chinul, 지눌, 知訥), đã không xem các phương pháp thiền định củaThiền tông có vị trí cao hơn mà còn tuyên bố tư tưởngThiền tôngGiáo có sự tương đồng và sự thống nhất về mặt bản chất. Mặc dù cả hai trường phái đều để lại dấu ấn trong lịch sử, nhưng đến cuối triều đại, pháiThiền tông trở nên lấn át trong những ảnh hưởng của nó đến triều đình và xã hội cũng như trong những tác phẩmPhật học của nhiều học giả uyên thâm. Trong suốt triều đại Cao Ly,Thiền tông trở thành "quốc giáo", nhận được sự ủng hộ và nhiều đặc quyền rộng rãi thông qua mối quan hệ với gia quyến vương tộc và các thành viên quyền lực trong triều đình.

Mặc dù các tông phái kinh điển đã suy yếu trong hoạt động và tầm ảnh hưởng của mình vào thời điểm này do sự lớn mạnh của pháiThiền tông, tông pháiHoa Nghiêm (Hwaŏm, 화엄, 華嚴) vẫn tiếp tục là nguồn kiến thức sinh động của vương quốc Cao Ly, tông phái này đa phần kế tục từ các tông pháiNghĩa Sương (Ŭisang, 의상, 義湘) vàNguyên Hiểu (Wŏnhyo, 원효, 元曉). Đặc biệt, tác phẩm củaQuân Như (Kyunyŏ, 균여, 均如; 923-973) đã mở đường cho sự hòa giải giữa hai pháiHoa NghiêmThiền tông với quan điểm hòa nhã của pháiHoa Nghiêm về sau này. Những tác phẩm củaQuân Như là một nguồn tài liệu quan trọng cho nền học thuật hiện đại nhận diện bản chất đặc thù của pháiHoa Nghiêm Triều Tiên.

Một nhân vật quan trọng khác ủng hộ sự thống nhất Thiền/Giáo tông làNghĩa Thiên (Ŭich'ŏn, 의천, 義天). Như hầu hết các nhà sư khác thời sơ Cao Ly, ông bắt đầu nghiên cứuPhật học theo tông pháiHoa Nghiêm. Sau đó, ông sangTrung Hoa, và ngay khi trở về, ông đã nhanh chóng truyền giảng Thiên đài tông (Ch'ŏnt'ae, 천태종, 天台宗), vốn trở nên dễ nhận ra là một pháiThiền tông khác. Do đó, giai đoạn này được mô tả là thời "ngũ giáo, lưỡng tông" (ogyo yangjong, 5교2육, 五教兩宗). Tuy nhiên, bản thânNghĩa Thiên bị rất nhiều môn đồThiền tông xa lánh và ông đã qua đời khi còn tương đối trẻ mà không chứng kiến được sự hợp nhất Thiền - Giáo.

Nhân vật quan trọng nhất của pháiThiền tông dưới thời Cao Ly làTri Nột (1158-1210). Vào thời đại của ông, giới tăng già đang khủng hoảng về giáo lý bên trong và ngoài đạo.Phật giáo dần chịu ảnh hưởng của những khuynh hướng thế tục và sự liên quan đến thế tục, như bói toán, cầu kinh và hành lễ cầu thành đạt trong những cố gắng thế tục. Sự xuống dốc này có nguyên nhân từ sự gia tăng ngày càng nhanh của số lượng các tăng ni với động cơ theo đạo đáng nghi ngờ. Do đó, chủ đề trừng giới, phục hồi niềm tin và cải tổ chất lượngPhật giáo là những chủ đề tranh cãi đáng chú ý của giới lãnh đạoPhật giáo thời bấy giờ.

Hoa Nghiêm kinh biến tướng đồ (Hwaŏmgyŏng Pyŏnsangdo, 화엄경변상도, 華嚴經變相圖), bức tranh minh họa sự truyền giảng kinh Hoa Nghiêm thời Cao Ly.

Tri Nột đeo đuổi việc hình thành một trào lưu mới bên trongThiền tông Triều Tiên mà ông gọi làhộitam muội địa (samādhi - 三昧地) vàbát nhã (prajñā - 般若) với mục tiêu tạo dựng một giáo phái mới với các bậc tu hành khổ luyện, tĩnh tâm ở sâu trong núi. Cuối cùng, ông cũng hoàn thành tâm nguyện với sự sáng lập chùa Tùng Quảng (Songgwangsa, 송광사, 松廣寺) trên đỉnh núi Tào Khê (Chogye, 조계, 曹溪). Các công trình củaTri Nột đã khẳng định đặc điểm riêng biệt của tông phái mình thông qua sự phân tích và công thức hóa một cách hoàn hảo phương pháp luận nghiên cứu và thực hành Thiền. Một cuộc tranh cãi lớn đã gây xáo động một thời gian dài trong pháiThiền tôngTrung Hoa nhận được sự quan tâm sâu sắc từTri Nột, là mối quan hệ giữa phương pháp "tiệm" (từ từ) và "đốn" (ngay lập tức) trong hành và ngộ. Rút tỉa từ sự luận bàn của ngườiTrung Hoa về chủ đề này, quan trọng nhất là củaTông Mật (Zongmi, 宗密; 780-841) và Đại Tuệ (Dahui, 大慧; 1089-1163),Tri Nột đã sáng tạo ra phương pháp tự chứng "đột ngộ từ tiệm hành" (giác ngộ nhanh từ thực hành chậm), ông đã phác thảo một số bài giảng tương đối súc tích và dễ hiểu về phương pháp này.Tri Nột cũng đã hợp nhất phương pháp quán thoại (kwanhwa, 관훈, 觀話) vào hành pháp củaĐại Tuệ. Dạng tham thiền này là phương pháp chính được dạy trongThiền tông Triều Tiên ngày nay. Quan điểm trung dung củaTri Nột trong mâu thuẫn giữa Thiền - Giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đếnPhật giáo Triều Tiên.

Trào lưu chung củaPhật giáo vào nửa sau của triều đại Cao Ly đã đi xuống vì tham nhũng và sự gia tăng của tư tưởng chính trị và triết học bàiPhật giáo mạnh mẽ. Tuy nhiên, dù đã sa sút nhưng thời kỳ này cũng xuất hiện một vài trong số những cao tăng kiệt xuất nhất củaThiền tông Triều Tiên. Ba vị sư nổi tiếng nhất của thời kỳ này, những người đã ghi lại tên tuổi của mình một cách xuất sắc trong việc vẽ nên đường tương lai củaThiền tông Triều Tiên, vừa là đồng đạo vừa là thân hữu:Cảnh Nhàn Bạch Vân (Kyŏnghan Baeg'un, 경한백운, 景閑白雲; 1298-1374),Thái Cổ Phổ Ngu (T'aego Pou, 태고보우, 太古普愚; 1301-1382) vàLãn Ông Tuệ Cần (Naong Hyegŭn, 나옹혜근, 懶翁慧勤; 1320-1376). Cả ba ông đều đếnnhà NguyênTrung Quốc để học phép giảngLâm tế (臨濟;Imje trong tiếng Triều Tiên)quán thoại vốn đã đượcTri Nột truyền bá. Sau khi trở về, cả ba người đã xây dựng những phương pháp sâu sắc có đối chiếu của phái Lâm tế cho phép giảng của họ. Mỗi người được cho là thu nạp hằng trăm môn đồ, cho thấy phương pháp này đưa vàoThiền tông Triều Tiên đã mang lại một hiệu quả rất đáng kể. Bất chấp sự ảnh hưởng củaLâm tế, một phương pháp cơ bản bị cho là chốnggiáo về bản chất, Cảnh Nhàn và Lãn Ông, dưới ảnh hưởng củaTri Nột và trào lưu thông Phật giáo (t'ong pulgyo, 통불교, 通佛敎) truyền thống, cho thấy một sự quan tâm hơn bình thường vào nghiên cứu kinh kệ, cũng như sự hiểu biết sâu sắc vềNho giáoLão giáo do sự ảnh hưởng ngày càng tăng của triết họcTrung Hoa như là nền tảng của hệ thống giáo dục chính quy. Từ giai đoạn này, xuất hiện một xu hướng đáng ghi nhớ dành cho giới tăng niPhật giáo Triều Tiên đó là "tam pháp luận".

Một sự kiện lịch sử trọng đại ở thời Cao Ly là sự xuất bản bản khắc gỗ đầu tiên của bộ kinhTam tạng được gọi làBát vạn đại tạng kinh. Hai bản đã được khắc, bản đầu tiên bắt đầu từ năm 1210 đến năm 1231 thì hoàn thành và bản thứ hai từ năm 1214 đến năm 1259 thì hoàn thành. Bản đầu tiên bị hủy hoại do hỏa hoạn trong một cuộc tấn công của quânMông Cổ vào năm 1232, còn bản thứ hai vẫn còn tồn tại đến ngày nay và được lưu giữ tại chùaHải ấn, tỉnh Khánh Thượng Nam (Kyŏngsangnam). Bản kinhTam tạng này có chất lượng cao và được xem như là phiên bản chuẩn của kinhTam tạng tạiĐông Á trong gần 700 năm.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềGoryeo.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềCao Ly.
  1. ^국방부 군사편찬연구소, 고려시대 군사 전략 (2006) (The Ministry of National Defense, Military Strategies in Goryeo)
  2. ^국사편찬위원회, 고등학교국사교과서 p63(National Institute of Korean History, History for High School Students, p64)[1]Lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2005 tạiWayback Machine
  3. ^Rossabi, M. Khubilai Khan: His Life and Times, p98
  4. ^Hsu, Cho-yun (2012).China: A New Cultural History (bằng tiếng Anh). Columbia University Press. tr. 266–267.ISBN 9780231528184. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2019.
  5. ^Bielenstein 2005, tr. 184.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBielenstein2005 (trợ giúp)
  6. ^Wood, Nigel. "Technological Parallels between Chinese Yue wares and Korean celadons." in Papers of the British Association for Korean Studies (BAKS Papers), vol 5. Gina Barnes and Beth McKillop, eds. London: British Association for Korean Studies, 1994; pp. 39-64.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Cao_Ly&oldid=74450752
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp