Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưngvẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu cácchú thích trong hàng. Hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung các chú thích nguồn cho các nội dung tương ứng.(tháng 11/2023) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Nguồn lấy dữ liệu dân số và GDP: 《中国统计年鉴—2005》/Niên giám thống kê Trung Quốc 2005ISBN 7503747382 Nguồn lấy dữ liệu dân tộc: 《2000年人口普查中国民族人口资料》/Tư liệu nhân khẩu dân tộc dựa trên điều tra dân số năm 2000 của Trung QuốcISBN 7105054255
Cam Túc (giản thể:甘肃;phồn thể:甘肅;bính âm:Gānsù;Wade–Giles:Kan-su, Kansu, hoặc Kan-suh,ngheⓘ) là một tỉnh ở phía tây bắc củaTrung Quốc. Năm 2018, Cam Túc là tỉnh đông thứ hai 22 về số dân, đứng thứ hai mươi bảy về kinh tế Trung Quốc với 26,372 triệu dân, tương đương vớiBờ Biển Ngà[1] và GDP danh nghĩa đạt 824,6 tỉ NDT (124,6 tỉ USD) tương ứng vớiUkraina.[2] Cam Túc có chỉ số GDP đầu người đứng thứ ba mươi mốt trong khu vực Trung Quốc đại lục, xếp hạng ba mươi ba (hạng cuối) trong danh sách các đơn vị hành chính Trung Quốc, đạt 31.336 NDT (tương ứng 4.735 USD).[3]
Cam Túc là từ hợp thành được sử dụng lần đầu tiên vào thờiNhà Tống, bao gồm hai châu (州) của thờinhà Tùy vàNhà Đường là: Cam Châu (khu vực xung quanhTrương Dịch) và Túc Châu (khu vực xung quanhTửu Tuyền).
NướcTần (秦), sau này trở thànhnhà nước sáng lập của đế quốc Trung Hoa, đã bắt đầu từ khu vực đông nam của Cam Túc, đặc biệt là khu vựcThiên Thủy (天水). HọTần được cho là có nguồn gốc từ khu vực này[2]. Các lăng mộ thời Tần và các cổ vật đã được khai quật tạiPhóng Mã Than (放馬灘) tháng 6 năm 1986 gần Thiên Thủy, bao gồm một bản đồ khoảng 2.200 năm tuổi về huyệnKhuê Phụ (圭阝) thờiTần Thủy Hoàng năm thứ 8 (khoảng năm 239 TCN)[3].
Trong thời kỳ phong kiến, Cam Túc là một tiền đồn chiến lược quan trọng và là mắt xích thông tin liên lạc cho đế quốc Trung Hoa, dohành lang Hà Tây (河西走廊) chạy dọc theo "cổ" của tỉnh này.Nhà Hán đã mở rộngVạn Lý Trường Thành dọc theo hành lang này, cũng như xây dựng các thị trấn-pháo đài chiến lượcNgọc Môn Quan (gầnĐôn Hoàng) vàDương Quan dọc theo nó. Các dấu tích của tường thành và các thị trấn này cho đến nay vẫn có thể còn được tìm thấy.Nhà Minh cũng đã xây dựng tiền đồnGia Dục Quan (嘉峪关) tại Cam Túc. Về phía tây Ngọc Môn Quan vàdãy núi Kỳ Liên, ở phía tây bắc tỉnh này, ngườiNguyệt Chi,Ô Tôn và các bộ lạc du cư khác đã từng cư trú tại đó (Sử ký, 123), đôi khi được nhắc đến trongđịa chính trị khu vực của đế quốc. Nằm dọc theocon đường tơ lụa, Cam Túc đã từng là một tỉnh quan trọng về mặt kinh tế, cũng như là con đường truyền tải văn minh đông-tây. Các chùa, chiền và hang độngPhật giáo[4], chẳng hạn tạihang Mạc Cao (hang ngàn Phật) vàhang Mạch Tích Sơn chứa cácbích họa có giá trị nghệ thuật và lịch sử. Dạng nguyên thủy củagiấy được viết bằng chữ Hán có niên đại vào khoảng năm8 TCN đã được phát hiện tại khu vực của một pháo đài nhà Tây Hán gần Ngọc Môn Quan vàotháng 8 năm2006[5].
Các trận động đất, khô hạn và đói kém xảy ra thường xuyên có xu hướng làm chậm sự phát triển kinh tế của tỉnh cho tới gần đây, khi người ta dựa trên sự giàu có các nguồn khoáng sản của tỉnh để bắt đầu phát triển để trở thành một trung tâm công nghiệp quan trọng. Trậnđộng đất tại Cam Túc mạnh 8,6 độRichter đã làm khoảng 180.000 người chết vào năm1920, và một trận động đất khác với cường độ 7,6 đã giết chết khoảng 70.000 người vào năm1932.
Tỉnh Cam Túc có diện tích 425.800 km², và phần lớn đất đai của tỉnh này nằm ở độ cao trên 1 km so với mực nước biển. Nó nằm giữacao nguyên Tây Tạng,Nội Mông Cổ,cao nguyên Hoàng Thổ và có biên giới vớiMông Cổ ở phía tây bắc. SôngHoàng Hà chảy qua phần phía nam của tỉnh. Tỉnh này cũng chứa điểm trung tâm địa lý của Trung Quốc, được đánh dấu bằng đài kỷ niệm tại vĩ độ 35,33° bắc và kinh độ 103,23°đông.[6]
Sông Hoàng Hà có nguồn nước chủ yếu tại tỉnh Cam Túc và chảy qua Lan Châu.
Về địa hình thì Cam Túc bằng phẳng ở phía bắc và nhấp nhô ở phía nam. Các rặng núi phía nam là một phần củadãy núi Kỳ Liên. Với độ cao 5.547 m, Kỳ Liên Sơn là đỉnh cao nhất tại Cam Túc. Nó nằm tại tọa độ 39° vĩ bắc và 99° kinh đông.
Tỉnh Cam Túc có dân số đến hết năm 2018 là 26.372.600 người, trong đó có 12.577.100 người sống ở thành thị, chiếm tỉ lệ 47,69%. Cam Túc có 92% dân số làngười Hán. Ngoài ra còn có các dân tộc khác nhưHồi,Tạng,Thổ,Mãn,Duy Ngô Nhĩ,Dụ Cố,Bảo An,Mông Cổ,Tát Lạp vàKazakh.
Phần lớn cư dân tại Cam Túc sử dụng phương ngữ tiếng Trung quan thoại phương bắc. Ở khu vực biên giới của Cam Túc người ta còn sử dụng các thứ tiếng khác nhưAmdo Tạng,Mông Cổ vàKazakh. Phần lớn các dân tộc thiểu số cũng nói tiếng Trung, ngoại trừ bộ lạc người Thổ nói tiếng Mông Cổ rất ít khi sử dụng ngôn ngữ thứ hai.
Ẩm thực tại Cam Túc dựa trên các loại sản phẩm chính được nuôi trồng tại đây:lúa mì,lúa mạch,kê,đậu vàkhoai lang. Trong phạm vi Trung Quốc, Cam Túc được biết đến vì các món mì và cácnhà hàng Hồi giáo với đặc trưng của ẩm thực Cam Túc là phổ biến tại phần lớn các thành phố lớn của Trung Quốc.
Gia Dục Quan tại thành phố cùng tên là cửa ải lớn nhất và còn nguyên vẹn nhất củaVạn Lý Trường Thành. Gia Dục Quan được xây dựng vào đầu thời kỳ Nhà Minh, khoảng năm1372. Nó được xây dựng gần một ốc đảo khi đó là điểm cực tây của Trung Quốc. Gia Dục Quan là cửa ải đầu tiên ở phía tây của Vạn Lý Trường Thành vì thế tên gọi của nó có nghĩa là "Cửa ải đầu tiên và lớn nhất dưới bầu trời". Một viên gạch thừa nằm trên gờ của một cổng. Một truyền thuyết nói rằng viên quan chịu trách nhiệm đã yêu cầu người thiết kế tính toán số gạch cần dùng. Người thiết kế đã đưa ra một con số và khi xây dựng xong thì chỉ còn thừa đúng một viên gạch. Nó đã được đặt trên đỉnh của cửa ải như là biểu tượng để kỷ niệm. Một diễn giải khác cho rằng công trình xây dựng được giao cho một viên tướng quân đội và một nhà kiến trúc. Nhà kiến trúc đã đưa cho viên tướng bản dự toán số gạch mà ông ta cần. Khi viên tướng quản lý nhận thấy viên kiến trúc sư kia đã không đề nghị thêm một viên gạch dư thừa nào cả, ông ta đã yêu cầu nhà kiến trúc sửa lại bản dự toán để tính tới các tình huống không dự liệu trước được. Nhà kiến trúc, nhìn nhận việc này như là sự xỉ nhục đối với khả năng lập kế hoạch của ông ta, đã bổ sung thêm đúng 1 viên gạch vào yêu cầu. Khi cửa ải xây dựng xong thì viên gạch dư thừa trên thực tế vẫn còn và người ta đã để nó trên gờ cổng.
Hang Mạc Cao gầnĐôn Hoàng là một bộ sưu tập đáng ngạc nhiên về nghệ thuật và tôn giáo củaPhật giáo. Nó được công nhận làdi sản thế giới kể từ năm1987. Ban đầu ở đây có 1.000 hang động, nhưng hiện nay chỉ còn 735 hang động là còn giữ được, chia thành hai khu bắc (248 hang với 5 còn bích họa hay tượng) và nam (487 hang, đều có bích họa hay tượng). Mỗi chùa, miếu trong các hang đều có một bức tượngPhật hayBồ Tát lớn và được tô vẽ thêm các cảnh tôn giáo. Năm336, một nhà sư tên làLạc Tôn (樂尊) đã nhìn thấy kim quang chiếu xuống như thể có hàng vạn Phật. Lạc Tôn đã bắt đầu cho khai tạc hang động đầu tiên để ghi nhớ sự kiện đó. Trong thời kỳNgũ đại Thập quốc đã không còn chỗ trên vách núi và không thể xây dựng thêm được hang động nào.
Con đường tơ lụa lịch sử bắt đầu từTrường An và kéo dài tớiConstantinopolis. Trên con đường này, các thương nhân có thể đi tới Đôn Hoàng tại Cam Túc. Tại Đôn Hoàng họ có thể đổi lấy lạc đà còn khỏe mạnh, thực phẩm và người bảo vệ cho cuộc hành trình đầy nguy hiểm quasa mạc Taklamakan. Trước khi rời Đôn Hoàng họ có thể cầu nguyện tại hang Mạc Cao để xin một chuyến đi an toàn, nếu họ có thể trở lại đây thì họ sẽ lại tạ ơn trời đất tại hang này. Dọc theo sa mạc, họ cần phải lập thành những đoàn người đi trên lạc đà nhằm tự bảo vệ trước các nhóm cướp. Điểm dừng tiếp theo làKhách Thập (Kashi, Kashgar). Tại Khách Thập, phần lớn hàng hóa có thể trao đổi và người ta có thể quay trở lại, còn những người ở lại có thể ăn hoa quả và đổi lạc đà hai bướu của mình lấy những con lạc đà một bướu. Sau Khách Thập, họ có thể đi tiếp cho đến khi tới điểm tới tiếp theo.
Chùa Bỉnh Linh hay động Bỉnh Linh, là một quần thể hang động Phật giáo trong hẻm núi dọc theo sông Hoàng Hà. Bắt đầu xây dựng năm 420 trong thờinhà Tây Tấn, khu vực này bao gồm hàng chục hang động với các mẫu chạm khắc, điêu khắc và bích họa. Bức tượng Phật Di Lặc lớn cao trên 27 m và là tương tự như bức tượng Phật đã từng tồn tại trên vách đá tạiBamiyan,Afghanistan. Khu vực này chỉ có thể tiếp cận được bằng cách đi thuyền từVĩnh Tĩnh (永靖) vào mùa hè hay mùa thu.
Đại tự việnLạp Bặc Lăng nằm tại huyệnHạ Hà,châu tự trị dân tộc Tạng Cam Nam, ở phía nam Cam Túc và một phần của tỉnh cũ của Tây Tạng làAn Đa (Amdo). Nó là một trong sáu đại tự viện chính của truyền thốngCách-lỗ phái trongPhật giáo Tây Tạng tạiTây Tạng và là quan trọng nhất tại Amdo. Được xây dựng năm 1710, nó có 6 đại học viện và chứa trên 60.000 kinh văn cũng như các tác phẩm văn chương khác cùng các tạo tác văn hóa khác.
3.000 khu vực trầm tích của 145 loại khoáng chất khác nhau. 94 khoáng chất dã được tìm thấy và xác định chắc chắn, bao gồm nickel, cobalt, platin, selen, đất sét, serpentin và 5 khoáng chất khác với trữ lượng lớn nhất tại Trung Quốc. Cam Túc có ưu thế trong việc khai thác nickel, kẽm, cobalt, platin, iridi, đồng, barit và baudisserit.
Trong số các nguồn năng lượng quan trọng nhất của Cam Túc là nguồn nước: sông Hoàng Hà và các lưu vực sông nội địa khác. Cam Túc đứng thứ 9 trong số các tỉnh Trung Quốc về tiềm năng thủy điện hàng năm cũng như về lưu lượng nước. Cam Túc sản xuất 17,24 gigawatt thủy điện trong một năm. 29 nhà máy thủy điện đã được xây dựng tại tỉnh này. Mỗi nhà máy có thể tạo ra 30 gigawatt. Về trữ lượng than, Cam Túc có khoảng 8,92 tỷ tấn. Tỉnh này cũng có khoảng 700 triệu tấn dầu mỏ. Ngoài rá, Cam Túc cũng có tiềm năng tốt trong việc phát triển phong điện và điện mặt trời.
Cam Túc có 659 loài động vật hoang dã. Một số loài đáng chú ý là gấu trúc lớn, khỉ mũi hếch, linh dương, báo tuyết, hươu, nai, hươu xạ và lạc đà hai bướu. Tại đây cũng có 24 loài động vật hiếm khác đang nằm dưới sự bảo vệ của nhà nước. Cam Túc cũng có 441 loài chim.