Vùng lãnh thổ này bị sáp nhập vàoĐông Phi thuộc Đức năm 1891 và cùng nước láng giềng tạo thành lãnh thổ Rwanda-Urundi đặt dưới sự ủy trị của Bỉ từ sauChiến tranh thế giới thứ I.
Năm 1962, Burundi giành được độc lập và trở thành vương quốc dưới sự cai trị của Quốc vươngMwami Mwambutsa IV thuộc sắc tộcTutsi. Cuộc nổi loạn của người Hutu diễn ra vào năm 1965 dẫn đến sự trả đũa man rợ của người Tutsi. Năm 1966, Mwambutsa bị con trai là Ntaré truất phế. Đến lượt người này, Quốc vương Ntaré, lại bị một sĩ quan người Tutsi làMichel Micombero lật đổ trong cùng năm ấy. Cuộc xung đột sắc tộc giữangười Hutu và nhóm thiểu sốngười Tutsi dẫn đến tàn sát lẫn nhau (1972-1973). Năm 1976, trung tá J. B. Bagaza chỉ huy nhóm sĩ quan người Tutsi lật đổ Tổng thống M. Micombero. Năm 1987, Tổng thống J. B. Bagaza bị một sĩ quan người Tutsi là P. Buyoya lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự. Cuộc xung đột sắc tộc lại xảy ra năm 1988.
Tiến trình dân chủ hóa được xúc tiến từ năm 1988, cán cân quyền lực giữa người Hutu và người Tutsi được quân bình.
Hiến pháp năm 1992 thông qua thể chếđa đảng. Năm 1993,Melchi N'Dadaye, đại diện đầu tiên của người Hutu đắc cử Tổng thống, nhưng N'Dadaye bị quân đội thuộc nhóm người Tutsi ám sát. Người kế nhiệm là Tổng thống C. Ntaryamira cùng Tổng thốngJuvénal Habyarimana của Rwanda bị chết trong vụ nổ máy bay tại thủ đôKigali (Rwanda) năm 1994. Bạo lực lại bùng nổ giữa quân đội người Tutsi và người Hutu.
Năm 1996, quân đội tiến hành cuộc đảo chính và đưa Tổng thống P. Buyoya trở lại cầm quyền. Hơn 200.000 người bị giết kể từ khi cuộc xung đột bắt đầu, cả quân đội người Tutsi và lực lượng nổi loạn người Hutu phải chịu trách nhiệm cuộc tàn sát này. ÔngNelson Mandela được chỉ định làm người trung gian hòa giải cho cuộc chiến này vào đầu năm 2000. Tháng 7 năm 2001, một Hiệp định hòa bình mong manh và thỏa thuận chia sẻ quyền lực được ký kết giữa Chính phủ và 18 phe nhóm chính trị, nhưng phe nổi loạn Hutu đấu tranh chống Chính phủ không đồng ý tham dự. Nội chiến lại tiếp tục trong năm 2002, những cố gắng nhằm ký một hiệp định ngừng bắn không đạt được thành công nào.
Chính trị của Burundi diễn ra trong khuôn khổ của một nướccộng hòa tổng thống, với một hệ thống chính trị đa đảng.
Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia và vừa lãnh đạoChính phủ. Tổng thống được bầu trực tiếp bởi người dân theo một nhiệm kỳ 7 năm và có quyền tái cử 1 lần. Tổng thống bổ nhiệmPhó Tổng thống vàThủ tướng để giúp mình lãnh đạo các công việc hằng ngày của Chính phủ. Quyền hành pháp được trao cho chính phủ. Quyền lập pháp được cả chính phủ và lưỡng viện Quốc hội nắm giữ.
Quốc hội (tiếng Pháp:Assemblée nationale) có 118 thành viên, được bầu cho một nhiệm kỳ năm năm. Thượng viện (Senat) có 49 thành viên, được bầu cho một nhiệm kỳ năm năm trong bầu cử của hội đồng xã.
Tình hìnhchính trịxã hội của Burundi nhiều năm không ổn định do tranh giành quyền lực giữa hai bộ tộc chính người Hutu và Tutsi. Sau cuộc bầu cử năm 2005 đến nay, tình hình Burundi được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại những thách thức về an ninh và phát triển.
Burundi được chia thành 17 tỉnh, 117 xã và 2.638 làng.[9] Chính quyền cấp tỉnh được cấu trúc theo những ranh giới. Năm 2000, tỉnh Bujumbura được tách thành hai tỉnh, Bujumbura và Bunjumbura Mairie.
Burundi nằm trong vùng khí hậu xích đạo. Các vùng thấp ở rìa phía Bắc và phía Đông nóng ẩm, vùng cao nguyên và núi có khí hậu ôn hòa hơn. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 độ C đến 23 độ C. Lượng mưa trung bình khoảng 1.500 mm/năm, mùa mưa từ tháng 2 đến tháng 5 và từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 6 đến tháng 8 và từ tháng 12 đến tháng 1.
Đất bị xói mòn do chăn thả quá mức và mở rộngnông nghiệp; nạn phá rừng (diện tích rừng bị thu hẹp do không kiểm soát được tình trạng khai thácgỗ bừa bãi); nguy cơ thú rừng bị tuyệt chủng do mất nơi cư trú.
Trong giai đoạn năm 1993 – 1999, do các cuộc nội chiến liên miên và lệnh cấm vận của nước ngoài (1996),GDP của Burundi giảm đi 20%, tỷ lệ vốn đầu tư giảm từ 18% xuống còn 6% vàlạm phát năm 1999 lên tới 21%. Cuộc nội chiến kết thúc cùng với tình hìnhchính trị ổn định đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, nước này vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn do tình trạng nghèo đói,thất học, sự yếu kém trong quản lý hành chính và hệ thốngluật pháp còn lỏng lẻo.
Burundi là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Công nghiệp kém phát triển chủ yếu là chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp chiếm khoảng 35% GDP và sử dụng hơn 90% dân số. Burundi xuất khẩu chính là cà phê và chè, chiếm 90% thu nhập ngoại tệ. Mặc dù GDP Burundi tăng khoảng 4% hàng năm từ 2006 đến nay, nhưng hiện tại, đang tiềm ẩn những yếu kém (tỷ lệ đói nghèo cao, hệ thống pháp luật yếu, mạng lưới giao thông kém, các tiện ích quá tải, và năng lực hành chính thấp...) mang đến nguy cơ phá hoại kế hoạch cải cách kinh tế của Chính phủ Burundi. Burundi đang phụ thuộc nhiều vào viện trợ từ các nhà tài trợ song phương và đa phương.
Burundi là nước nghèo tài nguyên,công nghiệp kém phát triển. Kinh tế chủ yếu dựa vào trồng trọt (cà phê,ngô,đậu,lúa miến,chè, bông vải,dầucọ) và chăn nuôi (dê,cừu,bò). Khoảng 90% dân số sống nhờ vàonông nghiệp. Các mặt hàng xuất khẩu gồm cà phê, chè và chuối. Kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu cà phê (chiếm đến 80% ngoại tệ thu được) Vì vậy khả năng thanh toán hàng hóa nhập khẩu không ổn định, tùy vào thị trường cà phê thế giới. Từ tháng 10 năm 1993, đất nước này trải qua những cuộc bạo động, xung đột lớn về sắc tộc làm khoảng 250.000 người chết và 800.000 người mất nhà cửa. Thực phẩm, thuốc men, điện nước không đủ đáp ứng.
Dân số Burundi hiện nay khoảng 10.216.190 (2010). Dân số Burundi chủ yếu sống ở nông thôn, trong khi 11% dân số sống ở khu vực đô thị vào năm 2010. Mật độ dân số khoảng 315 người trên mỗi km vuông, là nước có mật độ dân số cao thứ hai trong tiểu vùng Sahara.[10] Khoảng 85% dân số là người Hutu, 15% là người Tutsi, và ít hơn 1% làngười Pygmy. Burundi có mức sinh cao thứ năm trên thế giới, tại 6,08 con sinh ra / người phụ nữ (2012 ước tính).[11]
Ước tính Kitô giáo chiếm 75% dân sô trong đóCông giáo La Mã là nhóm lớn nhất chiếm 60%.Tin Lành vàAnh giáo chiếm 15% còn lại. Ước tính có khoảng 20% dân số tuân thủ các niềm tin tôn giáo bản địa truyền thống. Dân số Hồi giáo được ước tính ở mức 5%, đa số sống ở các vùng đô thị. NgườiSunni chiếm đa số dân số Hồi giáo, còn lại làShi'a.[13]
^Annuaire statistique du Burundi(PDF) (Bản báo cáo) (bằng tiếng Pháp). ISTEEBU. tháng 7 năm 2015. tr. 105.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2015.