Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Bao lồi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bao lồi của tập hợp màu đỏ làtập lồi màu xanh và màu đỏ.

Tronghình học,bao lồi của một hình làtập hợp lồi nhỏ nhất chứa hình đó. Bao lồi có thể được định nghĩa là giao của tất cả tập lồi chứa một tập con cho trước của mộtkhông gian Euclid, hoặc là tập hợp gồm tất cảtổ hợp lồi của các điểm trong tập con đó. Đối với một tập conbị chặn của mặt phẳng, bao lồi có thể được minh họa thành một hình bao bởi mộtdây đàn hồi kéo giãn xung quanh tập con đó.

Bao lồi củatập mở là bao lồi mở, và bao lồi củatập compact là bao lồi compact. Mỗi tập lồi compact đều là bao lồi của cácđiểm cực biên của nó. Toán tử bao lồi là một ví dụ vềtoán tử đóng, và mộtantimatroid có thể được biểu diễn bằng cách áp dụng toán tử đóng này cho tập hợp hữu hạn các điểm. Các bài toánthuật toán về việc tìm bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm trong mặt phẳng hoặc các không gian Euclid ít chiều khác và bài toánđối ngẫu về cácnửa không gian giao nhau đều là những vấn đề cơ bản củahình học tính toán. Chúng có thể được giải trong thời gianO(nlogn){\displaystyle O(n\log n)} đối với tập hợp điểm hai chiều hoặc ba chiều, và trong thời gian bằng với độ phức tạp thời gian trong trường hợp tệ nhất được cho bởiđịnh lý cận trên ở không gian nhiều chiều hơn.

Cùng với tập hợp điểm hữu hạn, bao lồi cũng đã được nghiên cứu đối vớiđa giác đơn,chuyển động Brown,đường cong ghềnhtrên đồ thị của hàm. Bao lồi được ứng dụng rộng rãi trong toán học, thống kê, tối ưu hóa tổ hợp, kinh tế, mô hình hóa hình học và tập tính học. Một số cấu trúc liên quan đến nó bao gồmbao lồi trực giao,lớp lồi,chỏm lồi,tam giác đạc Delaunaysơ đồ Voronoi.

Định nghĩa

[sửa |sửa mã nguồn]
Bao lồi của một tập phẳng bị chặn

Một tập hợp các điểm trên mộtkhông gian Euclid được gọi làtập lồi nếu nó chứa các đoạn thẳng nối từng cặp điểm của nó. Bao lồi của một tậpX{\displaystyle X} cho trước có thể được định nghĩa là[1]

  1. Tập lồi nhỏ nhất chứaX{\displaystyle X}
  2. Giao của tất cả các tập lồi chứaX{\displaystyle X}
  3. Tập hợp tất cảtổ hợp lồi của các điểm trongX{\displaystyle X}
  4. Hợp của tất cảđơn hình với các đỉnh thuộcX{\displaystyle X}.

Vớitập bị chặn trong mặt phẳng Euclid mà các điểm trong tập đó không tạo thành đường thẳng thì đường biên của bao lồi làđường cong Jordan vớichu vi nhỏ nhất chứaX{\displaystyle X}. Có thể tưởng tượng rằng ta kéo giãn mộtdây đàn hồi để nó bao quanh toàn bộ tậpS{\displaystyle S} rồi thả dây ra để nó co lại đến mức tối đa; khi đó, dây bao lại tập lồi củaS{\displaystyle S}.[2] Cách hiểu này không thể mở rộng được ngay cho không gian nhiều chiều hơn: với một tập hợp hữu hạn các điểm trong không gian ba chiều, một lân cận của mộtcây bao trùm của các điểm này bao lại chúng với diện tích bề mặt nhỏ tùy ý và nhỏ hơn diện tích bề mặt của bao lồi.[3] Tuy nhiên, trong không gian nhiều chiều, một số dạng củabài toán vật cản về việc tìm một bề mặt năng lượng thấp nhất nằm trên một hình cho trước có thể có bao lồi là nghiệm của chúng.[4]

Với các đối tượng trong không gian ba chiều, định nghĩa đầu tiên phát biểu rằng bao lồi làvùng giới hạn lồi nhỏ nhất của các đối tượng đó. Định nghĩa qua giao của các tập lồi có thể được mở rộng chohình học phi Euclid, và định nghĩa qua tổ hợp lồi có thể được mở rộng từ không gian Euclid sangkhông gian vectơ thực hoặckhông gian afin bất kỳ; bao lồi cũng có thể được khái quát hóa theo một cách trừu tượng hơn sangmatroid định hướng.[5]

Quan hệ giữa các định nghĩa

[sửa |sửa mã nguồn]
Bao lồi 3D của một đám mây điểm gồm 120 điểm

Định nghĩa đầu tiên không hiển nhiên đúng: vì sao phải tồn tại một tập lồi nhỏ nhất chứaX{\displaystyle X} với mọiX{\displaystyle X}? Tuy nhiên, định nghĩa thứ hai (giao của tất cả các tập lồi chứaX{\displaystyle X}) lại mang tính rạch ròi hơn. Theo đó, bao lồi là tập con của mỗi tập lồiY{\displaystyle Y} khácX{\displaystyle X} chứaX{\displaystyle X}, vìY{\displaystyle Y} có trong các tập được giao. Do đó, nó chính là tập lồi nhỏ nhất chứaX{\displaystyle X}. Vì vậy, hai định nghĩa đầu tiên là tương đương nhau.[1]

Mỗi tập lồi chứaX{\displaystyle X} phải chứa tất cả tổ hợp lồi của các điểm trongX{\displaystyle X} (theo giả thiết rằng nó là tập lồi), nên tập hợp tất cả các tổ hợp lồi này có trong giao của tất cả các tập lồi chứaX{\displaystyle X}. Ngược lại, tập hợp tất cả các tổ hợp lồi cũng là một tập lồi chứaX{\displaystyle X} nên nó cũng chứa giao của tất cả các tập lồi chứaX{\displaystyle X}, và do đó định nghĩa thứ hai và thứ ba là hai định nghĩa tương đương.[6]

Thực tế, theođịnh lý Carathéodory, nếuX{\displaystyle X} là tập con của một không gian Euclidd{\displaystyle d} chiều, mỗi tổ hợp lồi của một số hữu hạn các điểm trongX{\displaystyle X} cũng là một tổ hợp lồi của nhiều nhấtd+1{\displaystyle d+1} điểm trongX{\displaystyle X}. Tập hợp các tổ hợp lồi của một bộ gồmd+1{\displaystyle d+1} điểm là mộtđơn hình; trong mặt phẳng nó là mộttam giác và trong không gian ba chiều nó là mộttứ diện. Vì vậy, mỗi tổ hợp lồi của các điểm trongX{\displaystyle X} đều thuộc một đơn hình có các đỉnh thuộcX{\displaystyle X}, nên định nghĩa thứ ba và thứ tư là hai định nghĩa tương đương.[6]

Bao trên và bao dưới

[sửa |sửa mã nguồn]

Ở hai chiều, bao lồi đôi khi được chia thành hai phần là bao trên và bao dưới, kéo dài giữa các điểm ngoài cùng bên trái và bên phải của bao đó. Tổng quát hơn, đối với bao lồi trong bất kỳ không gian nhiều chiều nào, có thể chia đường biên của bao đó thành các điểm mặt trên (những điểm mà theo đó một tia hướng lên không giao với bao), điểm mặt dưới và điểm cực biên. Với bao ba chiều, các phần mặt trên và mặt dưới của đường biên tạo thành những đĩa tôpô.[7]

Tính chất tôpô

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao đóng và bao mở

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao lồi đóng của một tập hợp làtập đóng của bao lồi, vàbao lồi mởphần trong (hoặc, trong một số tài liệu,phần trong tương đối) của bao lồi.[8]

Bao lồi đóng củaX{\displaystyle X} là giao của tất cả cácnửa không gian đóng chứaX{\displaystyle X}. Nếu bao lồi củaX{\displaystyle X} đã là mộttập đóng (xảy ra chẳng hạn khiX{\displaystyle X} là mộttập hữu hạn hoặc, tổng quát hơn, là mộttập compact) thì nó bằng bao lồi đóng đó. Tuy nhiên, giao của các nửa không gian đóng là tập đóng, nên khi một bao lồi không phải là bao lồi đóng thì nó không thể biểu diễn được theo cách này.[9]

Nếu bao lồi mở của một tập hợpX{\displaystyle X} là bao lồid{\displaystyle d} chiều thì mỗi điểm trong bao đó thuộc một bao lồi mở gồm nhiều nhất2d{\displaystyle 2d} điểm thuộc tậpX{\displaystyle X}. Tập hợp các đỉnh của mộthình vuông, khối bát diện đều, hoặckhối đa diện chéo trong không gian nhiều chiều là những ví dụ về trường hợp cần đúng2d{\displaystyle 2d} điểm.[10]

Sự bảo toàn tính chất tôpô

[sửa |sửa mã nguồn]
Đường cong phù thủy Agnesi, một ví dụ về tập đóng có bao lồi là mở (nửa không gian trên mở)

Về mặt tôpô, bao lồi của mộttập mở luôn luôn là bao lồi mở, và bao lồi của một tập compact luôn luôn là bao lồi compact. Tuy nhiên, có một số tập đóng có bao lồi không phải là bao lồi đóng.[11] Chẳng hạn, tập đóng

{(x,y)|y11+x2}{\displaystyle \left\{(x,y)\mathop {\bigg |} y\geq {\frac {1}{1+x^{2}}}\right\}}

(tập hợp các điểm thuộc hoặc nằm phía trênđường cong phù thủy Agnesi) có bao lồi lànửa mặt phẳng trên mở.[12]

Tính compact của bao lồi của tập compact trong không gian Euclid với số chiều hữu hạn được khái quát hóa bằngđịnh lý Krein–Smulian, theo đó bao lồi đóng của một tập con compact yếu trong mộtkhông gian Banach (một tập con có tính compact dưới dạngtôpô yếu) là bao lồi compact yếu.[13]

Điểm cực biên

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Định lý Krein–Milman

Mộtđiểm cực biên của một tập lồi là một điểm trong tập hợp không nằm trên một đoạn thẳng giữa hai điểm khác trong cùng tập hợp đó. Đối với một bao lồi, mỗi điểm cực biên đều phải thuộc tập đã cho, vì ngược lại nó không thể tạo thành một tổ hợp lồi gồm các điểm đã cho. Theođịnh lý Krein–Milman, mỗi tập lồi compact trong một không gian Euclid (hoặc, tổng quát hơn, trong mộtkhông gian vectơ tôpô lồi địa phương) là bao lồi của các điểm cực biên của nó.[14] Tuy nhiên, định lý này có thể không đúng đối với các tập lồi không compact; ví dụ, toàn bộ mặt phẳng Euclid vàquả cầu đơn vị mở đều có tính lồi, nhưng chúng không có điểm cực biên nào.Lý thuyết Choquet mở rộng định lý này từ tổ hợp lồi hữu hạn của các điểm cực biên sang tổ hợp vô hạn trong các không gian tổng quát hơn.[15]

Tính chất hình học và đại số

[sửa |sửa mã nguồn]

Toán tử đóng

[sửa |sửa mã nguồn]

Toán tử bao lồi có các tính chất đặc trưng của mộttoán tử đóng:[16]

Khi được áp dụng cho một tập hợp hữu hạn các điểm, đó chính là toán tử đóng của mộtantimatroid, cụ thể là antimatroid bao của tập hợp đó. Mỗi antimatroid đều có thể được biểu diễn theo cách này bằng bao lồi của các điểm trong một không gian Euclid với số chiều đủ lớn.[17]

Tổng Minkowski

[sửa |sửa mã nguồn]

Các phép toán dựng bao lồi và tínhtổng Minkowski giao hoán lẫn nhau vì tổng Minkowski của bao lồi của các tập hợp có cùng kết quả với bao lồi của tổng Minkowski của các tập hợp đó. Kết luận này là một bước để chứng minhđịnh lý Shapley–Folkman giới hạn khoảng cách giữa một tổng Minkowski và bao lồi của nó.[18]

Đối ngẫu xạ ảnh

[sửa |sửa mã nguồn]

Phépđối ngẫu xạ ảnh để dựng bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm chính là phép dựng giao của một họ gồm các nửa không gian đóng chứa điểm gốc (hoặc một điểm bất kỳ xác định).[19]

Trường hợp đặc biệt

[sửa |sửa mã nguồn]

Tập hợp điểm hữu hạn

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Đa diện lồi
Bao lồi của các điểm trong mặt phẳng

Bao lồi của một tập hợp điểm hữu hạnSRd{\displaystyle S\subset \mathbb {R} ^{d}} tạo thành mộtđa giác lồi khid=2{\displaystyle d=2}, hoặc tổng quát hơn là mộtđa diện lồi trongRd{\displaystyle \mathbb {R} ^{d}}. Mỗi điểm cực biên của bao đó được gọi làđỉnh, và (theo định lý Krein–Milman) mỗi đa diện lồi đều là bao lồi của các đỉnh của nó. Nó chính là đa diện lồi duy nhất có các đỉnh thuộcS{\displaystyle S} và bao hết toàn bộS{\displaystyle S}.[2] Với tập hợp các điểm ởvị trí tổng quát, bao lồi là mộtđa diện đơn hình.[20]

Theođịnh lý cận trên, số mặt của bao lồi củan{\displaystyle n} điểm trong không gian Euclidd{\displaystyle d} chiều làO(nd/2){\displaystyle O(n^{\lfloor d/2\rfloor })}.[21] Đặc biệt, ở hai chiều và ba chiều, số mặt lớn nhất của bao lồi tuyến tính theon{\displaystyle n}.[22]

Đa giác đơn

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Bao lồi của một đa giác đơn
Bao lồi của một đa giác đơn

Bao lồi của mộtđa giác đơn bao quanh đa giác đã cho và được nó chia thành nhiều vùng, trong đó có một vùng là chính đa giác đó. Các vùng còn lại, giới hạn bởi mộtchuỗi đa giác của đa giác và một cạnh của bao lồi, được gọi làrãnh (pocket). Thực hiện lặp lại phân tích này với mỗi rãnh một cách đệ quy thì một biểu diễn phân cấp của đa giác đã cho được tạo thành và được gọi làcây sai phân lồi (convex differences tree) của đa giác đó.[23] Chiếu lại một rãnh qua cạnh bao lồi của nó làm mở rộng đa giác đơn này thành một đa giác mới với chu vi không đổi và diện tích lớn hơn, vàđịnh lý Erdős–Nagy phát biểu rằng quá trình mở rộng này sẽ chấm dứt sau một số hữu hạn bước.[24]

Chuyển động Brown

[sửa |sửa mã nguồn]

Đường cong dochuyển động Brown tạo ra trong mặt phẳng, tại bất kỳ thời điểm cố định nào, có xác suất là 1 để có bao lồi mà đường biên tạo thành mộtđường cong khả vi liên tục. Tuy nhiên, với một gócϕ{\displaystyle \phi } thỏa mãnπ/2<ϕ<π{\displaystyle \pi /2<\phi <\pi }, sẽ có những thời điểm trong chuyển động Brown mà trong đó một chất điểm chạm vào đường biên của bao lồi tại một đỉnh của gócϕ{\displaystyle \phi }.Số chiều Hausdorff của tập hợp những thời điểm đặc biệt như thế là1π/2ϕ{\displaystyle 1-\pi /2\phi } (với xác suất cao).[25]

Đường cong trong không gian

[sửa |sửa mã nguồn]
Oloid, bao lồi của hai đường tròn trong không gian 3D

Đối với bao lồi của mộtđường cong trong không gian hoặc một tập hợp hữu hạn các đường cong không gian ở vị trí tổng quát trong không gian ba chiều, các phần của đường biên cách ra khỏi những đường cong này là các bề mặtxiênkhai triển được.[26] Một số ví dụ bao gồmoloid, bao lồi của hai đường tròn trong các mặt phẳng vuông góc, trong đó mỗi đường tròn đều đi qua tâm của đường tròn còn lại;[27]sphericon, bao lồi của hai nửa đường tròn đồng tâm trong các mặt phẳng vuông góc; và D-form, các hình lồi có được từđịnh lý Alexandrov đối với một mặt phẳng được tạo thành bằng cách dán hai tập lồi phẳng cùng chu vi lại với nhau.[28]

Hàm toán học

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Bao lồi dưới

Bao lồi hoặcbao lồi dưới của một hàmf{\displaystyle f} trong một không gian vectơ thực là hàm cótrên đồ thị là bao lồi dưới của trên đồ thị củaf{\displaystyle f}. Nó làhàm lồi cực đại duy nhất bị chặn trên bởif{\displaystyle f}.[29] Định nghĩa này có thể được mở rộng cho bao lồi của một tập hợp các hàm (có được từ bao lồi của hợp của các trên đồ thị, hoặc từ giá trị nhỏ nhất theo từng điểm của chúng) và, ở dạng này, có tính đối ngẫu với phép toánliên hợp lồi.[30]

Tính toán

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Thuật toán bao lồi

Tronghình học tính toán, có một số thuật toán để tính bao lồi của một tập hợp hữu hạn các điểm và các đối tượng hình học khác. Ở đây "tính bao lồi" có nghĩa là xây dựng mộtcấu trúc dữ liệu rõ ràng và hiệu quả để biểu diễn hình lồi cần tìm. Các dạng biểu diễn đầu ra đã được xét đối với bao lồi của tập hợp điểm bao gồm một hệbất phương trình bậc nhất mô tả cácmặt của bao, mộtđồ thị vô hướng của các mặt đó (kể cả các mặt liền kề), hoặc toàn bộdàn mặt của bao đó.[31] Ở hai chiều, có một cách đơn giản hơn là liệt kê các điểm là đỉnh trongcấp cyclic của chúng quanh bao này.[2]

Với bao lồi hai chiều hoặc ba chiều, độ phức tạp tính toán của các thuật toán tương ứng thường được đo theo số điểm đầu vàon{\displaystyle n} và số điểm trong bao lồih{\displaystyle h}, có thể nhỏ hơn đáng kể so vớin{\displaystyle n}. Đối với bao trong không gian nhiều chiều thì số mặt của các chiều khác cũng có thể được quan tâm khi phân tích thuật toán.Quét Graham có thể tính bao lồi củan{\displaystyle n} điểm trong mặt phẳng trong thời gianO(nlogn){\displaystyle O(n\log n)}. Với các điểm ở hai và ba chiều, có một sốthuật toán nhạy cảm đầu ra phức tạp hơn có thể tính được bao lồi trong thời gianO(nlogh){\displaystyle O(n\log h)}, trong đó cóthuật toán Chanthuật toán Kirkpatrick–Seidel.[32] Với số chiềud>3{\displaystyle d>3}, thời gian để tính bao lồi làO(nd/2){\displaystyle O(n^{\lfloor d/2\rfloor })}, bằng với độ phức tạp đầu ra trong trường hợp tệ nhất của bài toán.[33] Bao lồi của một đa giác đơn trong mặt phẳng có thể được dựng trongthời gian tuyến tính.[34]

Các cấu trúc dữ liệubao lồi động có thể được dùng để theo dõi bao lồi của một tập hợp điểm khi thêm vào hoặc xóa đi các điểm trong tập hợp,[35] và các cấu trúcbao lồi điểm chuyển động có thể giúp theo dõi bao lồi đối với các điểm chuyển động liên tục.[36] Dựng bao lồi cũng là công cụ cho một số thuật toán hình học tính toán khác, chẳng hạn như thuật toánthước cặp quay dùng để tínhchiều dàiđường kính của một tập hợp điểm.[37]

Các cấu trúc liên quan

[sửa |sửa mã nguồn]
Bao lồi trực giao
Bao lồi tương đối

Một số hình khác có thể được xác định từ một tập hợp các điểm theo cách tương tự như với bao lồi, có thể là tập cha nhỏ nhất với tính chất nhất định, là giao của tất cả các hình chứa các điểm đó từ một họ các hình cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp của các điểm với dạng nhất định. Ví dụ:

  • Bao afin là không gian con afin nhỏ nhất của một không gian Euclid chứa một tập hợp cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp afin của các điểm trong tập hợp đó.[38]
  • Bao tuyến tính là không gian con tuyến tính nhỏ nhất của một không gian vectơ chứa một tập hợp cho trước, hoặc là hợp của tất cả tổ hợp tuyến tính của các điểm trong tập hợp đó.[38]
  • Bao conic hoặc bao dương của một tập con của một không gian vectơ là tập hợp tất cả tổ hợp dương của các điểm trong tập con đó.[38]
  • Bao trực quan của một đối tượng ba chiều, đối với một tập hợp điểm nhìn, chứa các điểmp{\displaystyle p} sao cho mỗi tia từ một điểm nhìn đi quap{\displaystyle p} đều cắt đối tượng đó. Một cách tương đương, nó là giao của các mặt nón (không lồi) được tạo bởi các đường biên của đối tượng đối với mỗi điểm nhìn. Trongtái cấu trúc 3D, nó là hình lớn nhất có thể có các đường biên giống nhau từ các điểm nhìn cho trước.[39]
  • Bao tròn hoặc bao alpha của một tập con của mặt phẳng là giao của tất cả các đĩa với bán kính cho trước là1/α{\displaystyle 1/\alpha } chứa tập con đó.[40]
  • Bao lồi tương đối của một tập con của mộtđa giác đơn hai chiều là giao của tất cả các tập cha lồi tương đối, trong đó một tập hợp nằm trong đa giác đó là tập lồi tương đối nếu nó chứađường trắc địa giữa hai điểm bất kỳ của nó.[41]
  • Bao lồi trực giao là giao của tất cả các tập cha lồi trực giao được nối lại với nhau, trong đó một tập hợp được gọi là tập lồi trực giao nếu nó chứa tất cả các đoạn thẳng song song với trục tọa độ nối từng cặp điểm có trong nó.[42]
  • Bao lồi trực giao là một trường hợp đặc biệt của một dạng cấu trúc tổng quát hơn,bao siêu lồi, vốn có thể được xem làkhông gian mêtric đơn ánh nhỏ nhất chứa các điểm của mộtkhông gian mêtric cho trước.[43]
  • Bao lồi chỉnh hình là một dạng khái quát hóa của các khái niệm tương tự sangđa tạp giải tích phức, có được do nó là giao của các tập mức con của cáchàm chỉnh hình chứa một tập hợp cho trước.[44]

Tam giác đạc Delaunay của một tập hợp điểm và dạngđối ngẫu của nó,sơ đồ Voronoi, đều có liên quan đến bao lồi: tam giác đạc Delaunay của một tập hợp điểm trênRn{\displaystyle \mathbb {R} ^{n}} có thể được xem là hình chiếu của một bao lồi trênRn+1{\displaystyle \mathbb {R} ^{n+1}}.[45] Cáchình alpha của một tập hợp điểm hữu hạn cho một họ gồm các đối tượng hình học (không lồi) lồng nhau mô tả hình dạng của một tập hợp điểm tại các cấp độ chi tiết khác nhau. Mỗi hình alpha đều là hợp của một số điểm trong tam giác đạc Delaunay, được chọn bằng cách so sánhbán kính đường tròn ngoại tiếp của chúng với tham số alpha. Chính tập hợp điểm đó tạo thành một điểm cuối của họ các hình đó, và bao lồi của nó tạo thành điểm cuối còn lại.[40]Lớp lồi của một tập hợp điểm là một họ gồm đa giác lồi lồng nhau, trong đó đa giác ngoài cùng là bao lồi, với các lớp bên trong được dựng một cách đệ quy từ các điểm không phải là đỉnh của bao lồi đó.[46]

Chỏm lồi của một đa giác là đa giác lồi lớn nhất được chứa trong nó. Nó có thể được tìm trongthời gian đa thức, nhưng số mũ của thuật toán rất cao.[47]

Ứng dụng

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao lồi được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trong toán học, bao lồi được dùng để nghiên cứuđa thức,giá trị riêng của ma trận,phần tử đơn nguyên đơn vị và một số định lý liên quan đến bao lồi tronghình học rời rạc. Trongthống kê chuẩn mạnh, bao lồi là đường viền ngoài cùng củađộ sâu Tukey, là một phần quan trọng củabagplot minh họa dữ liệu hai chiều, và được dùng để xác định tập nguy cơ của cácquy tắc ra quyết định ngẫu nhiên. Bao lồi củavectơ chỉ thị của nghiệm cho các bài toán tổ hợp là nội dung trọng tâm trongtối ưu hóa tổ hợptổ hợp đa diện. Trong kinh tế học, bao lồi có thể được dùng để áp dụng các phương pháp vềtính lồi trong kinh tế cho các thị trường không lồi. Trong mô hình hóa hình học, đặc tính bao lồiđường cong Bézier hỗ trợ tìm các giao điểm của chúng, và bao lồi là một phần không thể thiếu trong việc đo thân tàu. Và trong nghiên cứu về tập tính của động vật, bao lồi xuất hiện trong một định nghĩa thường dùng vềphạm vi chỗ ở.

Toán học

[sửa |sửa mã nguồn]
Phân hoạch của bảy điểm thành ba tập con với bao lồi giao nhau, luôn luôn tồn tại với bảy điểm bất kỳ trong mặt phẳng theođịnh lý Tverberg

Đa giác Newton củađa thức đơn biến vàđa diện Newton của đa thức đa biến là bao lồi của các điểm được suy ra từ số mũ của các hạng tử trong đa thức, và có thể được dùng để phân tích tínhtiệm cận của đa thức và giá trị của nghiệm của đa thức đó.[48] Bao lồi và đa thức cũng có liên hệ với nhau trongđịnh lý Gauss–Lucas, theo đó mọinghiệm củađạo hàm của một đa thức đều nằm trong bao lồi của các nghiệm của đa thức đó.[49]

Tronglý thuyết phổ,miền số của mộtma trận chuẩn tắc là bao lồi của cácgiá trị riêng của nó.[50]Định lý Russo–Dye mô tả bao lồi của cácphần tử đơn nguyên đơn vị trong mộtC*-đại số.[51] Tronghình học rời rạc,định lý Radonđịnh lý Tverberg có liên quan đến sự tồn tại phân hoạch của các tập hợp điểm thành các tập con với bao lồi giao nhau.[52]

Định nghĩa tập lồi là tập hợp chứa tất cả các đoạn thẳng nối các điểm của nó và bao lồi là giao của tất cả các tập cha lồi đều áp dụng được chokhông gian hyperbol và không gian Euclid. Tuy nhiên, trong không gian hyperbol, còn có thể xét đến bao lồi của tập hợpđiểm lý tưởng gồm những điểm không thuộc chính không gian hyperbol mà chỉ nằm trong đường biên của một mô hình không gian đó. Đường biên của bao lồi của các điểm lý tưởng của không gian hyperbol ba chiều là tương tự vớibề mặt xiên trong không gian Euclid, và các tính chất mêtric của chúng đóng vai trò quan trọng tronggiả thuyết hình học hóa trongtôpô ít chiều.[53] Bao lồi hyperbol cũng được dùng khi tínhtam giác đạcchính tắc củađa tạp hyperbol, hay xác định xem hainút thắt có bằng nhau hay không.[54]

Xem thêm mụcchuyển động Brown về ứng dụng của bao lồi trongchuyển động Brown, và mụcđường cong không gian về ứng dụng của bao lồi trong lý thuyết vềbề mặt khai triển được.

Thống kê

[sửa |sửa mã nguồn]
Một bagplot. Vùng được tô màu nhạt ở ngoài cùng là bao lồi, và vùng được tô màu đậm hơn ở bên trong là hình bao với độ sâu Tukey là 50%.

Trongthống kê chuẩn mạnh, bao lồi là một trong những thành phần chủ chốt của mộtbagplot, một phương pháp để minh họa phân bố của các điểm mẫu hai chiều. Các hình bao củađộ sâu Tukey tạo thành một họ tập lồi lồng nhau với bao lồi nằm ngoài cùng, và bagplot cũng hiển thị một đa giác khác có hình bao với độ sâu 50% từ họ lồng nhau đó.[55]

Tronglý thuyết quyết định thống kê, tập nguy cơ của mộtquy tắc ra quyết định ngẫu nhiên là bao lồi của các điểm nguy cơ của các quy tắc ra quyết định tất định nằm dưới nó.[56]

Tối ưu hóa tổ hợp

[sửa |sửa mã nguồn]

Đối tượng nghiên cứu trọng tâm trongtối ưu hóa tổ hợptổ hợp đa diện là bao lồi củavectơ chỉ thị của nghiệm cho một bài toán tổ hợp. Nếu mặt của các đa diện đó có thể tìm được, mô tả đa diện là giao của các nửa không gian, thì các thuật toán dựa trênquy hoạch tuyến tính có thể được dùng để tìm nghiệm tối ưu.[57] Bao lồi của các vectơ trọng số của các nghiệm đó, một dạng khác của bao lồi, cũng được dùng trongtối ưu hóa đa mục tiêu. Ta có thể cực đại hóa bất kỳtổ hợp tựa lồi của các trọng số bằng cách tìm và kiểm tra từng đỉnh của bao lồi, hiệu quả hơn nhiều so với khi kiểm tra tất cả các nghiệm có thể có.[58]

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]

Trongmô hình Arrow–Debreu củacân bằng kinh tế tổng thể, đại diện kinh tế được giả thiết là cótập ngân sách lồi vàưa thích lồi. Các giả thiết này củatính lồi trong kinh tế có thể được dùng để chứng minh sự tồn tại của một cân bằng như thế. Khi dữ liệu kinh tế trong thực tế làphi lồi thì có thể chuyển dữ liệu này sang trạng thái lồi bằng cách lấy bao lồi của nó. Định lý Shapley–Folkman có thể được áp dụng để chứng minh rằng với các thị trường lớn thì phép xấp xỉ này là chính xác và dẫn đến một "tựa cân bằng" đối với thị trường phi lồi ban đầu.[59]

Mô hình hóa hình học

[sửa |sửa mã nguồn]

Trongmô hình hóa hình học, một trong những tính chất then chốt củađường cong Bézier là nó nằm trong bao lồi của các điểm kiểm soát của nó. Cái gọi là "đặc tính bao lồi" này có thể được áp dụng để nhanh chóng tìm ra giao điểm của các đường cong như vậy chẳng hạn.[60]

Trong thiết kế tàu thuyền,chu vi xích thân tàu (chain girth) là một độ đo kích thước của mộttàu buồm, được xác định bằng bao lồi của mặt cắt ngang thân tàu. Nó khác vớichu vi mặt ngoài thân tàu (skin girth) là chu vi của chính mặt cắt đó ngoại trừ đối với tàu thuyền có bao lồi.[61]

Tập tính học

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao lồi thường được xem là đa giác lồi nhỏ nhất trongtập tính học, một lĩnh vực nghiên cứu hành vi của động vật, ở đó nó là cách tiếp cận cổ điển để ước lượngphạm vi chỗ ở của một loài động vật dựa vào các điểm mà loài động vật đó được quan trắc.[62] Cácđiểm ngoại lai có thể làm kích thước của đa giác đó tăng một cách quá mức; một hướng tiếp cận khác để hạn chế tình trạng này là chỉ ước lượng dựa trên tập con của các điểm quan trắc, chẳng hạn như chọn một trong các lớp lồi sát với một tỉ lệ mật độ điểm dữ liệu làm mẫu,[63] hoặc áp dụng phương phápbao lồi địa phương bằng cách hợp bao lồi củaláng giềng của các điểm.[64]

Vật lý lượng tử

[sửa |sửa mã nguồn]

Trongvật lý lượng tử,không gian trạng thái của một hệ thống lượng tử — tập hợp tất cả các cách hệ thống có thể được thiết lập — là một bao lồi có điểm cực biên là cáctoán tử nửa xác định dương gọi là trạng thái thuần và các điểm ở phía trong gọi là trạng thái hỗn hợp.[65]Định lý Schrödinger–HJW chứng minh rằng một trạng thái hỗn hợp bất kỳ có thể được viết thành tổ hợp lồi của các trạng thái thuần theo nhiều cách khác nhau.[66]

Nhiệt động lực học

[sửa |sửa mã nguồn]
Bao lồi của các hợp chấtmagnesicarbon.[67] Trong ví dụ này Mg2C3 được dự đoán là không bền do nó nằm ở phía trên bao đó.

Một bao lồi trongnhiệt động lực học đã đượcJosiah Willard Gibbs xác định trong bài báo năm 1873,[68] dù nó được xuất bản từ trước khi thuật ngữ "bao lồi" có tên gọi như hiện tại. Trong một tập hợp các mức năng lượng của cáchệ số tỷ lượng đối với một vật liệu, chỉ có mức năng lượng với những giá trị đo nằm ở bao lồi dưới mới bền vững. Khi loại đi một điểm thì khoảng cách của nó tới bao này chỉ độ bền của trạng thái đó.[69]

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Bao lồi của các điểm trong mặt phẳng xuất hiện lần đầu tiên dưới dạng đa giác Newton trong thư củaIsaac Newton gửiHenry Oldenburg vào năm 1676.[70] Thuật ngữconvex hull trongtiếng Anh xuất hiện sớm nhất từ công trình củaGarrett Birkhoff (1935), và cụm từ tương ứng trongtiếng Đức xuất hiện sớm hơn, chẳng hạn như trong bình duyệt vềKőnig (1922) củaHans Rademacher. Một số thuật ngữ khác nhưconvex envelope cũng được sử dụng trong khoảng thời gian này.[71] Đến năm 1938, theoLloyd Dines, từconvex hull đã trở thành tiêu chuẩn, và Dines thêm rằng ông thấy đó là điều đáng tiếc, vì nghĩa thông tục của từhull có thể được hiểu rằng nó chỉ bề mặt của một hình, trong khi bao lồi thực tế còn chứa thêm cả phần bên trong chứ không chỉ có phần bề mặt đó.[72]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abRockafellar (1970), tr. 12.
  2. ^abcde Berg và đồng nghiệp (2008, tr. 3)
  3. ^Williams & Rossignac (2005). Xem thêm Douglas Zare, trả lời trong"the perimeter of a non-convex set" (chu vi của một tập không lồi), MathOverflow, ngày 16 tháng 5 năm 2014.
  4. ^Oberman (2007).
  5. ^Knuth (1992).
  6. ^abRockafellar (1970, tr. 12);Lay (1982, tr. 17).
  7. ^de Berg và đồng nghiệp (2008), tr. 6. Ý tưởng chia bao thành hai phần đến từ một dạng hiệu quả của thuật toánquét Graham củaAndrew (1979).
  8. ^Sontag (1982).
  9. ^Rockafellar (1970), tr. 99.
  10. ^Steinitz (1914);Gustin (1947);Bárány, Katchalski & Pach (1982)
  11. ^Grünbaum (2003), tr. 16;Lay (1982), tr. 21;Sakuma (1977).
  12. ^Đây là ví dụ trongTalman (1977, nhận xét 2.6).
  13. ^Whitley (1986).
  14. ^Krein & Milman (1940);Lay (1982, tr. 43)
  15. ^Okon (2000).
  16. ^Kiselman (2002).
  17. ^Kashiwabara, Nakamura & Okamoto (2005).
  18. ^Krein & Šmulian (1940, tr. 562–563, định lý 3);Schneider (1993), định lý 1.1.2 (tr. 2–3) và chương 3.
  19. ^de Berg và đồng nghiệp (2008), tr. 254.
  20. ^Grünbaum (2003), tr. 57.
  21. ^de Berg và đồng nghiệp (2008), tr. 256.
  22. ^de Berg và đồng nghiệp (2008), tr. 245.
  23. ^Rappoport (1992).
  24. ^Demaine và đồng nghiệp (2008).
  25. ^Cranston, Hsu & March (1989).
  26. ^Sedykh (1981).
  27. ^Dirnböck & Stachel (1997).
  28. ^Seaton (2017).
  29. ^Rockafellar (1970), tr. 36.
  30. ^Rockafellar (1970), tr. 149.
  31. ^Avis, Bremner & Seidel (1997).
  32. ^de Berg và đồng nghiệp (2008), tr. 13.
  33. ^Chazelle (1993);de Berg và đồng nghiệp (2008, tr. 256)
  34. ^McCallum & Avis (1979);Graham & Yao (1983);Lee (1983).
  35. ^Chan (2012).
  36. ^Basch, Guibas & Hershberger (1999).
  37. ^Toussaint (1983).
  38. ^abcWestermann (1976).
  39. ^Laurentini (1994).
  40. ^abEdelsbrunner, Kirkpatrick & Seidel (1983)
  41. ^Toussaint (1986).
  42. ^Ottmann, Soisalon-Soininen & Wood (1984).
  43. ^Herrlich (1992).
  44. ^Rossi (1961).
  45. ^Brown (1979).
  46. ^Chazelle (1985).
  47. ^Chang & Yap (1986).
  48. ^Artin (1967);Gel'fand, Kapranov & Zelevinsky (1994)
  49. ^Prasolov (2004).
  50. ^Johnson (1976).
  51. ^Gardner (1984).
  52. ^Reay (1979).
  53. ^Epstein & Marden (1987).
  54. ^Weeks (1993).
  55. ^Rousseeuw, Ruts & Tukey (1999).
  56. ^Harris (1971).
  57. ^Pulleyblank (1983); đặc biệt xem phần nhận xét ngay sau định lý 2.9.
  58. ^Katoh (1992).
  59. ^Nicola (2000); đặc biệt xem mục 16.9, "Non Convexity and Approximate Equilibrium", tr. 209–210.
  60. ^Chen & Wang (2003).
  61. ^Mason (1908).
  62. ^Kernohan, Gitzen & Millspaugh (2001, tr. 137–140);Nilsen, Pedersen & Linnell (2008).
  63. ^Worton (1995).
  64. ^Getz & Wilmers (2004).
  65. ^Rieffel & Polak (2011).
  66. ^Kirkpatrick (2006).
  67. ^Kim và đồng nghiệp (2019).
  68. ^Gibbs (1873).
  69. ^Hautier (2014), đặc biệt xemtr. 143;Fultz (2020)
  70. ^Newton (1676); xemAuel (2019, tr. 336) vàEscobar & Kaveh (2020).
  71. ^Chẳng hạn xemWhite (1923, tr. 520).
  72. ^Dines (1938).

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Đỗ Văn Lưu; Phan Huy Khải (2000), "Chương I: Tập lồi",Giải tích lồi, Hà Nội:Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, tr. 3–37. Đặc biệt xem mục "1.1.2 Bao lồi và bao lồi đóng", tr. 6–9.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Khái niệm cơ bản
Danh sách chủ đề
Ánh xạ
Kết quả chính
Tập hợp
Chuỗi
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bao_lồi&oldid=73507074
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp