Các nước thuộckhối Warszawa ở phía đông của Bức màn sắt được tô màu đỏ. Thành viênkhối NATO về phía bên trái được tô màu xanh. Các nước trung lập về quân sự được tô màu xám.Nam Tư (tô xanh lá), dù là một nước cộng sản, vẫn độc lập vớiKhối phía đông. Tương tự, nướcAlbania cộng sản mâu thuẫn vớiLiên Xô vào đầu thập niên 1960, và nghiêng về phíaTrung Quốc sau khiTrung-Xô chia rẽ.Bức màn sắt tại Đức
Bức màn sắt đã hình thành nên một biên giới phòng thủ giữa các quốc giaTây vàĐông Âu, mà trong đó nổi bật nhất làBức tường Berlin, trong một thời gian dài là biểu tượng của toàn bộ Bức màn sắt.[1]
Trong suốt mùa hè năm 1939, sau khi tiến hành đàm phán với cả nhóm Anh-Pháp lẫn Đức về các thỏa thuận chính trị và chiến tranh đang có nguy cơ nổ ra,[4] Liên Xô và Đức đã ký mộtThỏa thuận Thương mại trong đó giao thương một số loại khí tài và thiết bị dân dụng của Đức để đổi lấy nguyên liệu thô từ Liên Xô[5][6] vàHiệp ước Molotov-Ribbentrop, được đặt tên theo hai bộ trưởng ngoại giao của hai nước (Molotov-Ribbentrop), trong đó có một thỏa thuận mật phân chia vùng ảnh hưởng tại Ba Lan và Đông Âu giữa hai quốc gia này.[7][8] Quân đội Liên Xô sau đó đã xâm lấn ĐôngBa Lan,Latvia,Litva, bắcRumani,Estonia và ĐôngPhần Lan. Từ tháng 8 năm 1939 đến tháng 6 năm 1941 (khi Đức phá vỡ Hiệp ước vàtiến hành xâm lược Liên Xô), mối quan hệ giữa phương Tây và Liên Xô còn rạn nứt hơn nữa khi Liên Xô và Đức tham gia trong mốiquan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với việc Liên Xô gửi cho Đức nguồn dầu lửa, cao su, măn-gan và các loại vật liệu khác để đổi lấy vũ khí, máy móc sản xuất và công nghệ của Đức.[9][10]
Sau chiến tranh, Stalin muốn bảo đảm an toàn cho biến giới phía tây của Liên Xô bằng cách thành lập các chính thể do những người cộng sản lãnh đạo dưới sự ảnh hưởng của Liên Xô tại các nước cận biên giới. Ở phương Tây, có sự phản đối sự chi phối của Liên Xô đối với các quốc gia vùng đệm, và dấy lên nỗi sợ hãi Liên Xô đang xây dựng một đế chế và có thể sẽ trở thành mối đe dọa cho họ và những lợi ích của họ. Cụ thể hơn, Churchill e ngại rằng Hoa Kỳ sẽ quay trở lạichủ nghĩa cô lập như trước chiến tranh, để mặc cho các quốc gia châu Âu đang kiệt sức vì chiến tranh sẽ không thể chống cự lại nhu cầu của Liên Xô. Tổng thốngFranklin D. Roosevelt đã tuyên bố tạiHội nghị Yalta rằng sau khi nước Đức bị đánh bại, lực lượng Mỹ sẽ rút khỏi châu Âu trong vòng hai năm.[11]
Việc sử dụng thuật ngữ "Bức màn sắt" trong bối cảnh khu vực Đông Âu đang chịu ảnh hưởng của Liên Xô không phổ biến cho đến khi Churchill dùng nó trong bài "Nguồn tiếp sức cho Hòa bình" đọc vào ngày5 tháng 3 năm1946, tạiĐại học Westminster ởFulton, Missouri, tạm dịch:
“
TừSzczecin ởBaltic cho đếnTrieste ởAdriatic một "bức màn sắt" đã chạy dọc theo Lục địa. Phía sau bức màn đó là tất cả những thủ đô của những quốc gia cổ ở Trung và Đông Âu.Warszawa,Berlin,Praha,Viên,Budapest,Beograd,Bucharest vàSofia; tất cả những thành phố nổi tiếng này cùng dân cư sống quanh đó đang nằm trong thứ mà tôi phải gọi là quả cầu Liên Xô, và tất cả đều phải lệ thuộc, bằng cách này hay cách khác, vào không chỉ sự ảnh hưởng của Liên Xô mà còn vào sự điều khiển chặt chẽ và có khi ngày càng tăng lên từMoskva.
Thoạt đầu, nhiều quốc gia ở phương Tây chỉ trích rộng rãi bài phát biểu. Nhiều người dân phương Tây vẫn xem Liên Xô là đồng minh thân cận, trong bối cảnhĐức Quốc xã vàNhật Bản vừa bị đánh bại. Nhiều người cho rằng bài diễn văn của Churchill là hiếu chiến và không cần thiết. Với sự công bố các tài liệu lưu trữ của Liên Xô, một số nhà sử gia đã xem xét lại ý kiến của mình.[12]
Mặc dù cụm từ này không được đón nhận nồng nhiệt vào thời điểm đó, đến khiChiến tranh lạnh dần mạnh hơn, nó đã bắt đầu phổ biến khi nhắc đến sự chia rẽ của châu Âu. Bức màn sắt đóng vai trò giữ con người ở bên trong và ngăn cách thông tin bên ngoài, và phép ẩn dụ này cuối cùng cũng được chấp nhận rộng rãi khắp phương Tây.
Bản đồ năm 1938 với các biên giới hiện nay (màu xanh lá). Biên giới được điều chỉnh tô màu đen. Lãnh thổCHXHCNXV Liên bang Nga sau năm 1945 màu đỏ đậm. Lãnh thổ của nhữngnước Cộng hòa Xô viết được sáp nhập sau đó màu đỏ nhạt. Lãnh thổ quốc giavệ tinh của Liên Xô màu hồng.
Vào tháng 1 năm 1947, Truman chỉ định TướngGeorge Marshall làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, vứt bỏ chỉ thị 1067 của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, biểu hiện choKế hoạch Morgenthau và thay thế nó bằng chỉ thị 1779, trong đó nói rằng một châu Âu thứ tự và thịnh vượng cần phải có sự đóng góp về kinh tế của một nước Đức ổn định và có năng suất."[23]. Các quan chức chính phủ đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Liên XôVyacheslav Molotov và những người khác để thúc đẩy một nước Đức tự cung tự cấp về mặt kinh tế, bao gồm một sự tính toán chi tiết về các nhà máy công nghiệp, sản phẩm và cơ sở hạ tầng đã bị Liên Xô đánh sập.[24] Sau sáu tuần thương lượng, Molotov đã từ chối những đòi hỏi và cuộc thảo luận phải hoãn lại.[24] Marshall cảm thấy khá chán nản sau cuộc gặp cá nhân với Stalin, người tỏ thái độ ít quan tâm đến giải pháp cho vấn đề kinh tế của Đức.[24] Hoa Kỳ kết luận rằng một giải pháp là việc không thể chờ đợi được nữa.[24] Trong bài diễn văn vào ngày 5 tháng 6 năm 1947,[25] Marshall đã thông báo một chương trình trợ giúp toàn diện từ Hoa Kỳ cho tất cả các nước châu Âu nào muốn tham gia, bao gồm cả Liên Xô và những nước ở Đông Âu, gọi làKế hoạch Marshall.[24]
Stalin phản đối Kế hoạch Marshall. Ông đã tạo dựng mộtKhối phía đông làm vành đai bảo vệ các quốc gia do Liên Xô điều khiển ở biên giới phía tây của mình,[26] và muốn duy trì khu vực đệm gồm các quốc gia này cùng với một nước Đức yếu ớt chịu sự điều khiển của Liên Xô.[27] Lo sợ sự thâm nhập của nền chính trị, văn hóa và kinh tế của Hoa Kỳ, Stalin cuối cùng đã cấm các quốc gia ởkhối phía đông thuộcCominform vừa mới thành lập không được chấp nhận gói cứu trợ từKế hoạch Marshall.[24] TạiTiệp Khắc, nơi đã cần phải có một cuộcđảo chính vào năm 1948 do Liên Xô hậu thuẫn,[28] sự tàn bạo của sự kiện này đã gây sốc đến các thế lực phương Tây nhiều hơn bất kỳ một sự kiện nào xảy ra trước đó và nhanh chóng lan truyền nỗi sợ hãi xảy ra chiến tranh và quét sạch những vết tích cuối cùng của sự phản đối Kế hoạch Marshall tại Quốc hội Hoa Kỳ.[29]
SauKế hoạch Marshall, việc giới thiệu một đồng tiền mới cho Tây Đức để thay thế cho đồngReichsmark của phát xít và việc các đảng cộng sản thua cuộc trong những cuộc bầu cử lớn, vào tháng 6 năm 1948, Liên Xô cắt đứt con đường bộ dẫn đếnBerlin, khởi đầu cho việcPhong tỏa Berlin, cắt tất cả nguồn thức ăn, nước và các nguồn cung khác không phải của Liên Xô đối với khu vực Berlin không do Liên Xô kiểm soát.[37] Vì Berlin nằm trong khu vực nước Đức do Liên Xô chiếm đóng, phương thức tiếp tế duy nhất cho thành phố là ba vùng hành lang bay hạn chế.[38] Một chiến dịch tiếp tế bằng đường hàng không khổng lồ đã được Hoa Kỳ, Anh, Pháp và các nước khác khởi động, sự thành công của nó đã khiến cho Liên Xô phải dỡ bỏ lệnh phong tỏa vào tháng 5 năm 1949.
Việc nhập cư từ phía đông Bức màn sắt sang phía tây, ngoại trừ trong những tình huống đặc biệt, đều bị dừng hoàn toàn sau năm 1950. Trước năm 1950, trên 15 triệu người nhập cư vào phương tây từ các quốc gia Đông Âu do Liên Xô kiểm soát chỉ trong vòng năm năm sauThế chiến II.[39] Tuy nhiên, việc hạn chế được thực hiện trong Chiến tranh lạnh đã ngăn hầu hết việc nhập cư Đông-Tây, với chỉ 13,3 triệu người nhập cư sang phía tây từ năm 1950 đến 1990.[40] Hơn 75% những người nhập cư từ các quốc gia Khối phía đông trong khoảng từ 1950 đến 1990 là do những thỏa thuận song phương vì "di cư sắc tộc".[40] Khoảng 10% là những người tị nạn được phép nhập cư theo Hiệp định Geneve năm 1951.[40] Đa số người dân Liên Xô được phép rời đi trong khoảng thời gian này là sắc dân Do Thái được phép di cư vào Israel sau một loạt sự đào thoát đáng hổ thẹn vào năm 1970 khiến cho Liên Xô quản lý rất chặt việc di cư sắc tộc.[41] Sự sụp đổ Bức màn sắt đi kèm với tỷ lệ di cư Đông-Tây Âu tăng lên khủng khiếp.[40]
Cuốn sách bằng tiếng Thụy Điển "Đằng sau bức màn sắt của Nga" năm 1923
Thuật ngữ "bức màn sắt" đã được dùng nhiều lần trước khi Churchill dùng nó trong bài diễn văn. Thuật ngữ này có nguồn gốc từ KinhTalmud tại Babylon của người Do Thái, Tractate Sota 38b, trong đó có nhắc đến "mechitza shel barzel," hàng rào hay vật ngăn cách bằng sắt:
אפילו מחיצה של ברזל אינה מפסקת בין ישראל לאביהם שבשמים (Thậm chí một hàng rào sắt cũng không thể chia cách [nhân dân] Israel khỏi người cha thiên thượng của họ)
Một số người cho rằng thuật ngữ này có lẽ đượcHoàng hậu Elisabeth của Bỉ đặt ra sau Thế chiến I để mô tả tình thế chính trị giữaBỉ vàĐức, vào năm 1914.[42] Một bức màn sắt, hayeiserner Vorhang, là sự phòng ngừa bắt buộc trong tất cả các rạp hát của Đức để tránh khả năng lửa có thể lan từ sân khấu đến phần còn lại của rạp hát. Những vụ cháy như vậy xảy ra khá thường xuyên vì dụng cụ trang trí rất dễ bắt lửa. Trong trường hợp có hỏa hoạn, một bức tường bằng kim loại sẽ chia tách sân khấu với rạp hát, tách biệt ngọn lửa cho lính chữa cháy làm việc.Douglas Reed đã sử dụng phép ẩn dụ này trong cuốn sáchDisgrace Abounding của ông (Jonathan Cape, 1939, trang 129): "Cuộc xung đột quyết liệt [ở Nam Tư giữa lính liên hiệp Serbi và lính liên bang Croatia] đã bị sự độc tài của Đức vua che giấu nhờ một bức màn an toàn bằng sắt".Joseph Goebbels đã viết về một "bức màn sắt" trong tờ tuần báo của ôngDas Reich:
“
Nếu dân tộc Đức buông vũ khí, người Liên Xô, theo thỏa thuận giữa Roosevelt, Churchill và Stalin, sẽ chiếm đóng toàn bộ Đông và Đông Nam châu Âu cùng với một phần lớn Đế chế. Một bức màn sắt sẽ được phủ lên vùng đất rộng lớn do Liên Xô kiểm soát này, đằng sau nó các quốc gia sẽ bị tàn sát. Báo chí Do Thái ở Luân Đôn và New York có thể sẽ ngồi vỗ tay.
Trường hợp đầu tiên được ghi lại có sử dụng thuật ngữbức mànsắt là từ bức màn an toàn được dùng trong rạp hát và áp dụng lần đầu tiên vào biên giới của nước Nga Xô viết như một "hàng rào bất khả xâm phạm" vào năm 1920 củaEthel Snowden, trong cuốn sáchKhắp nước Nga Bolshevik của bà.[43] Nó được Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Đức,Joseph Goebbels, dùng trong Thế chiến II rồi sau đó đến Bá tướcLutz Schwerin von Krosigk vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Sự đề cập bằng lời một cách chủ ý lần đầu tiên về một Bức màn sắt trong bối cảnh Liên Xô là trong bài phát thanh của Bá tước Lutz Schwerin von Krosigk đến nhân dân Đức vào ngày2 tháng 5 năm1945:
“
Ở phía đông một bức màn sắt, mà đằng sau nó là những công việc phá hoại được che giấu khỏi con mắt của thế giới, đang nhanh chóng tiến tới.
^Ericson, Edward E. (1999),Feeding the German Eagle: Soviet Economic Aid to Nazi Germany, 1933–1941, Greenwood Publishing Group, tr. 1–210,ISBN0275963373
^Shirer, William L. (1990),The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany, Simon and Schuster, tr. 598–610,ISBN0671728687
^Antony BeevorBerlin: The building of the berlin wall', p80
^Granville, Johanna,The First Domino: International Decision Making during the Hungarian Crisis of 1956, Texas A&M University Press, 2004.ISBN 1-58544-298-4
Beschloss, Michael R (2003),The Conquerors: Roosevelt, Truman and the Destruction of Hitler's Germany, 1941-1945, Simon and Schuster,ISBN0743260856
Böcker, Anita (1998),Regulation of Migration: International Experiences, Het Spinhuis,ISBN9055890952
Churchill, Winston (1953),The Second World War, Houghton Mifflin Harcourt,ISBN0395410568
Cook, Bernard A. (2001),Europe Since 1945: An Encyclopedia, Taylor & Francis,ISBN0815340575
Ericson, Edward E. (1999),Feeding the German Eagle: Soviet Economic Aid to Nazi Germany, 1933–1941, Greenwood Publishing Group,ISBN0275963373
Grenville, John Ashley Soames (2005),A History of the World from the 20th to the 21st Century, Routledge,ISBN0415289548
Grenville, John Ashley Soames; Wasserstein, Bernard (2001),The Major International Treaties of the Twentieth Century: A History and Guide with Texts, Taylor & Francis,ISBN041523798X
Henig, Ruth Beatrice (2005),The Origins of the Second World War, 1933-41, Routledge,ISBN0415332621
Krasnov, Vladislav (1985),Soviet Defectors: The KGB Wanted List, Hoover Press,ISBN0817982310
Miller, Roger Gene (2000),To Save a City: The Berlin Airlift, 1948-1949, Texas A&M University Press,ISBN0890969671
Roberts, Geoffrey (2006),Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953, Yale University Press,ISBN0300112041
Roberts, Geoffrey (2002),Stalin, the Pact with Nazi Germany, and the Origins of Postwar Soviet Diplomatic Historiography, quyển 4
Shirer, William L. (1990),The Rise and Fall of the Third Reich: A History of Nazi Germany, Simon and Schuster,ISBN0671728687
Soviet Information Bureau (1948),Falsifiers of History (Historical Survey), Moscow: Foreign Languages Publishing House, 272848