Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Bờ Biển Ngà

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Bờ Biển Ngà
Tên bản ngữ
Quốc kỳ Bờ Biển Ngà
Quốc kỳ
Quốc huy Bờ Biển Ngà
Quốc huy

Tiêu ngữ'Union – Discipline – Travail' (tiếng Pháp)
'Đoàn kết – Kỷ luật – Lao động'

Quốc caL'Abidjanaise
(tiếng Anh:"Song of Abidjan")
Bản đồ thế giới
Bản đồ châu Phi
Tổng quan
Thủ đôYamoussoukro
6°51′B5°18′T / 6,85°B 5,3°T /6.850; -5.300
Thành phố lớn nhấtAbidjan
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Pháp
Tiếng bản xứ
Sắc tộc
(2021)[1]
Tôn giáo
(2021)[1]
Tên dân cư
Chính trị
Chính phủCộng hòatổng thống chếđơn nhất
Alassane Ouattara
Tiémoko Meyliet Koné
Robert Beugré Mambé
Lập phápQuốc hội
Thượng viện
Hạ viện
Lịch sử
Lịch sử
• Tuyên bố thành lập
4 tháng 12 năm 1958
7 tháng 8 năm 1960
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
322,462 km2 (hạng 68)
124,502 mi2
• Mặt nước (%)
1.4[4]
Dân số 
• Ước lượng 2024
31,500,000[2] (hạng 49)
• Điều tra 2021
29,389,150[3]
97.7/km2 (hạng 139)
236/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2023
• Tổng số
Tăng 202,647 tỷ đô la Mỹ[5] (hạng 78)
Tăng 6.960 đô la Mỹ[5] (hạng 138)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2023
• Tổng số
Tăng 79,430 tỷ đô la Mỹ[5] (hạng 84)
• Bình quân đầu người
Tăng 2.728 đô la Mỹ[5] (hạng 141)
Đơn vị tiền tệFranc CFA Tây Phi (XOF)
Thông tin khác
Gini? (2021)Giảm theo hướng tích cực 35.3[6]
trung bình
HDI? (2023)Tăng 0.582[7]
trung bình · hạng 157
Múi giờUTC±00:00 (Giờ chuẩn Greenwich)
Cách ghi ngày thángdd/mm/yyyy
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+225
Mã ISO 3166CI
Tên miền Internet.ci
  1. Bao gồm khoảng 130.000người Liban và 14.000người Pháp.


Bờ Biển Ngà, cũng được gọi làCôte d'Ivoire,[a] quốc hiệu làCộng hòa Bờ Biển Ngà, là một quốc gia ởTây Phi. Bờ Biển Ngà giáp vớiLiberia về phía tây,GuineaMali về phía tây bắc,Burkina Faso về phía đông bắc,Ghana về phía đông và nằm bên cạnhVịnh Guinea về phía nam. Thủ đô Bờ Biển Ngà làYamoussoukro, thành phố lớn nhất làAbidjan. Năm 2024, dân số của Bờ Biển Ngà là 31,5 triệu người, là dân số cao thứ ba tại Tây Phi.[2]

Trước khi bị thực dânchâu Âu chiếm đóng, Bờ Biển Ngà bao gồm nhiều nước nhỏ nhưGyaaman,Kong Empire, vàBaoulé. Ngoài ra còn có hai vương quốc củaNgười Anyi, đó làIndéniéSanwi, những quốc gia đã cố gắng duy trì sựđộc lập của mình trong suốt thời kìPháp thuộc và kể cả về sau này, khi Bờ Biển Ngà đã giành được độc lập.[10] Hiệp định 1843-1844 buộc Bờ Biển Ngà chấp nhận sự bảo hộ củaPháp vào năm 1883, Bờ Biển Ngà trở thành một bộ phận của hệ thốngthuộc địa củaPháp.

Bờ Biển Ngà tuyên bố độc lập vào ngày 7 tháng 8 năm 1960. Từ năm 1960 đến năm 1993, Bờ Biển Ngà được lãnh đạo bởiFélix Houphouët-Boigny. Trong giai đoạn này, Bờ Biển Ngà vẫn giữ mối liên kết mật thiết về kinh tế với các nước láng giềngTây Phi cũng như các nướcchâu Âu, đặc biệt làPháp. Tuy nhiên, sau giai đoạn lãnh đạo củaHouphouët-Boigny, Bờ Biển Ngà trải qua hai cuộcđảo chính và một cuộcnội chiến,[11] bất chấp cuộc bầu cử[12] và một hiệp định giữa chính phủ mới và nhóm nổi loạn được ký kết mang lại hòa bình cho Bờ Biển Ngà.[13] Bờ Biển Ngà là thành viênTổ chức Hợp tác Hồi giáo,Liên minh châu Phi,Cộng đồng Pháp ngữ,Liên minh Latinh,Cộng đồng Kinh tế Tây PhiKhu vực hòa bình và hợp tác Nam Đại Tây Dương.

Ngôn ngữ chính thức làtiếng Pháp nhưng Bờ Biển Ngà có rất nhiều thổ ngữ bao gồm tiếngBaoulé, tiếngDioula, tiếngDan, tiếngAnyin và tiếngCebaara Senufo.Tôn giáo chính ở Bờ Biển Ngà làđạo Hồi,đạo Thiên Chúa và những tôn giáo bản địa khác.

Thông qua xuất khẩucà phêcacao, Bờ Biển Ngà là một nền kinh tế mạnh mẽ ởTây Phi vào thập niên 1960-1970. Tuy nhiên, vào thập niên 1980, Bờ Biển Ngà đã phải trải quakhủng hoảng kinh tế, khiến cho quốc gia này trở nên rối loạn về chính trị xã hội. Kinh tế Bờ Biển Ngà trong thế kỉ 21 vẫn chủ yếu dựa vào kinh tế tiểu chủnông nghiệp.[4]

Tên gọi

[sửa |sửa mã nguồn]

Trongtiếng Pháp,Côte nghĩa là "bờ biển",d' nghĩa là "của" (tương tự 's -sở hữu cách trong tiếng Anh),Ivoire nghĩa là "ngà voi", vì thế nên trongtiếng Việt, quốc gia này được dịch thànhBờ Biển Ngà và trong nhiều ngôn ngữ khác cũng mang ý nghĩa tương tự:

Vào tháng 10 năm1985, Chính phủ nước này yêu cầu được gọi theo tên từ tiếng Pháp làCôte d'Ivoire trong mọi ngôn ngữ khác. Cách gọi này tương tự như tên nướcCosta Rica (tiếng Tây Ban Nha) luôn được dùng trong mọi ngôn ngữ.

Mặc dù đã có yêu cầu của chính phủ nước này, tên dịch nghĩa nhưBờ Biển Ngà,Ivory Coast,... vẫn là tên phổ biến trong các phương tiện truyền thông với ngôn ngữ ngoài tiếng Pháp. Các quốc gia sẽ sử dụng tênCôte d'Ivoire cho nước này trong các chương trình có liên quan tới ngoại giao.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Lịch sử Bờ Biển Ngà

Thuở sơ khai

[sửa |sửa mã nguồn]
Đá mài từ thời tiền sửceltBoundiali phía Bắc Bờ Biển Ngà. Ảnh được chụp tạiIFAN Museum of African ArtsDakar,Sénégal.

Rất khó để xác định khi nào xuất hiện dấu vết đầu tiên của con người ở Bờ Biển Ngà bởi vì thời tiết ẩm ướt của Bờ Biển không cho phép lưu giữ tốt những vết tích như vậy. Tuy nhiên, sự hiện diện của các loại vũ khí thô sơ cũng như các công cụ rời rạc (đặc biệt là dấu vết của các lưỡi rìu được mài sắc trên đất sét và những gì còn sót lại của việc nấu nướng và đánh cá) chứng tỏ khả năng một số lượng lớn người đã sinh sống ở Bờ Biển Ngà là có thể trong giai đoạnHậu đồ đá (từ năm 15.000 đến năm 10.000 trước CN),[14] hoặc ít ra là trong giai đoạnĐồ đá mới.[15]

Tuy nhiên, những cư dân đầu tiên của Bờ Biển Ngà đã để lại dấu vết chứng minh cho sự tồn tại của mình rải rác khắp nơi trên vùng đất này. Những nhà sử học đều tin rằng những cư dân đầu tiên đó đã được thay thế hoặc bị đồng hóa bởi tổ tiên của cư dân Bờ Biển Ngà hiện nay bắt đầu từ thế kỉ XVI, bao gồm người Ehotilé (Aboisso), người Kotrowou (Fresco), người Zéhiri (Grand Lahou), người Ega và người Diès (Divo).[16]

Thời kỳ thuộc địa

[sửa |sửa mã nguồn]

Bờ Biển Ngà là vùng đất hấp dẫn đối với các thương giaPhápBồ Đào Nha từthế kỷ XV. Họ đến đây để tìm kiếm ngà voi vànô lệ. Năm1842,thực dân Pháp chiếm các vùng ven biển, thiết lập chế độ thuộc địa năm 1893 và sáp nhập vào lãnh thổ Tây Phi thuộc Pháp năm 1896. Năm 1934,Abidjan trở thànhthủ đô, đất nước phát triển nhờ khai khẩn các đồn điềnca caocà phê, việc khai thácrừng được dễ dàng nhờ việc xây dựng đường sắtAbidjan-Niger kéo dài đến biên giới vùngThượng Volta.

Độc lập

[sửa |sửa mã nguồn]

Bờ Biển Ngà giành độc lập năm 1960. Bờ Biển Ngà cùng Dahomay (Bénin),NigerBurkina Faso thành lập đồng minhthuế quan năm1959. Bờ Biển Ngà là một trong những nước có nềnkinh tế phát triển trong vùngchâu Phi cậnSahara, đứng đầu thế giới về xuất khẩuca cao, là một trong những nước xuất khẩucà phê hàng đầuthế giới.

Houphouët-Boigny quản lý

[sửa |sửa mã nguồn]

Houphouët-Boigny trở thànhTổng thống sau khi đất nước độc lập (1960). Boigny tái đắc cử sáu lần và giữ chức này cho đến năm1993. Lực lượngsinh viên,nông dân và thợ thuyền đã phản đối buộcTổng thống phải hợp pháp hóa các đảng đối lập và tổ chức các cuộc bầu cử Tổng thống vàotháng 10 năm1990.Houphouet Boigny giành thắng lợi với 81% số phiếu.

Vềchính trị,Houphouët-Boigny lãnh đạo Bờ Biển Ngà với chính sách "bàn tay sắt". Một số nhận xét mềm mỏng hơn cho rằng sự lãnh đạo của ông giống với hình thái "phụ quyền-gia trưởng". Không có tự do báo chí và chỉ có một chính đảng tồn tại. Điều này được một số người chấp nhận điều này như yêu cầu tất yếu nhằm mục đích tranh thủ lá phiếu của cử tri. Houphouët-Boigny cũng bị chỉ trích bởi những vấn đề liên quan các dự án quy mô lớn. Nhiều người cho rằng việc chi hàng triệuUSD để cải tạoYamoussoukro, quê hương của Houphouët Boigny, thànhthủ đô mới là vô cùng lãng phí; một số người khác thì ủng hộ tầm nhìn của ông theo hướng phát triển thành phố này thành một trung tâmhòa bình,giáo dụctôn giáo ngay giữa lòng Bờ Biển Ngà. Nhưng vào những năm đầu thập niên 80 củathế kỷ XX, suy thoái kinh té thế giới cộng với hạn hán đã tác động không nhỏ đếnkinh tế Bờ Biển Ngà. Cùng với việc lạm dụng khai thácgỗ và đường bị rớt giá, nợ nước ngoài của Bờ Biển Ngà tăng lên gấp 3. Tội phạm gia tăng một cách đáng lo ngại ởAbidjan.

Năm 1990, hàng trăm cán bộnhà nước và sinh viên gây bạo loạn để phản đối tình trạngtham nhũng đang hoành hành. Cuộc bạo loạn buộcchính phủ phải chuyển sang nềndân chủđa đảng.Sức khỏe của Houphouët-Boigny ngày càng yếu và chết vào năm 1993. Ông đề cửHenri Konan Bédié là người kế nhiệm.

Bédié quản lý

[sửa |sửa mã nguồn]

Tháng 10 năm 1995,Bédié giành chiến thắng áp đảo trước phe đối lập rời rạc và thiếu tổ chức trong lần tái tranh cử. Bédié thắt chặt sự kiểm soát về chính trị, tống giam hơn 700 người ủng hộ phe đối lập. Tuy nhiên,kinh tế của Bờ Biển Ngà lại có những dấu hiệu khả quan như lạm phát giảm và chính phủ cố gắng xóa bỏ nợ nước ngoài.

Kết quả bầu cử năm 2002 ở Bờ Biển Ngà

Khác với Houphouët-Boigny, người chủ trương tránh những mâu thuẫn sắc tộc và để ngỏ một số vị trí trong bộ máy hành chính cho những người nhập cư từ các nước láng giếng,Bản mẫu:Bedié chú trọng vào quan điểm "Ivority" (tiếng Pháp:Ivoirité) để loại bỏ đối thủ của ông taAlassane Ouattara, vốn có bố mẹ là người phía bắc Bờ Biển Ngà, khỏi cuộc đua vào chiếc ghế tổng thống. Tuy nhiên, chính sách loại bỏ người nước ngoài này đã làm căng thẳng mối quan hệ giữa các sắc tộc khác nhau ở Bờ Biển Ngà, vốn từ trước đến nay có số lượng dân nhập cư chiếm phần lớn trong tổng số dân của cả nước.

Đảo chính năm 1999

[sửa |sửa mã nguồn]

Tương tự, Bédié đã loại bỏ nhiều đối thủ chính trị khỏi quân đội. Cuối năm 1999, một nhóm sĩ quan bất mãn với chính phủ đã tổ chức một cuộc đảo chính quân sự, đưa tướngRobert Guéï lên nắm quyền. Bédié bỏ trốn sangPháp. Chính quyền mới đã giảm bớt tình hình tội phạm và tham nhũng, cùng với việc áp đặt giới nghiêm và vận động rộng khắp trên đường phố về một xã hội tiết kiệm hơn.

Gbagbo quản lý

[sửa |sửa mã nguồn]

Cuộc bầu cử tổng thống tháng 10 năm 2000 giữa hai ứng cử viênLaurent Gbagbo và Guéï diễn ra quyết liệt nhưng hòa bình. Sự kiện nổi bật tiếp theo cuộc bầu cử tổng thống được đánh dấu bằng cuộc bạo loạn của quân đội và dân chúng Bờ Biển Ngà. Cuộc bạo loạn đã khiến 180 người chết và Guéï phải nhường lại chiếc ghế cho Gbagbo. Tòa án tối cao Bờ Biển Ngà ra quyết định phế truấtAlassane Ouattara vì gốc gác Burkinabé của ông ta. Hiến pháp Bờ Biển Ngà tại thời điểm đó cũng như dưới thời Guéï không cho phép người không đáp ứng đủ yêu cầu về quốc tịch đứng ra tranh cử tổng thống. Sự kiện này đã châm ngòi cho những xô xát bạo lực giữa người ủng hộAlassane Ouattara, chủ yếu là cư dân đến từ phía bắc Bờ Biển Ngà, và cảnh sát chống bạo động ở thủ đôYamoussoukro.

Mỗi bên đều tuyên bố thắng lợi trong cuộc bầu cử được cho là gian lận. Sự phản đối của nhân dân biến thành bạo động và buộc TướngGuei rời khỏi nhóm quân đội nổí loạn mưu toan đảo chính. Tướng Guei và Bộ trưởng Bộ Nội vụDoudou bị giết trong cuộc chiến giữa quân Chính phủ và phe nổi dậy. Tổng thốngLaurent Gbagbo, đắc cử năm 2000, tố cáo Guei tiến hành đảo chính.

Đảo chính năm 2002

[sửa |sửa mã nguồn]

Bờ Biển Ngà vẫn còn phải đối mặt với hậu quả của cuộc khủng hoảng chính trị trong đó đỉnh điểm là vụ đảo chính năm1999, cuộc bầu cử Tổng thống đương nhiệmLaurent Gbagbo vào năm 2000 và cuộc xung đột vũ trang năm 2002 giữa phe nổi loạn và lực lượngchính phủ. Kể từ tháng 9 năm 2002, tình hình này đã dẫn tới sự di dân ồ ạt của gần 1,7 triệu người, phá huỷ cơ sở hạ tầngkinh tế và sự rối loạn hoạt động của các cơ quan hành chínhnhà nước.

Chính phủ thống nhất 2003

[sửa |sửa mã nguồn]

Cuộc chiến vẫn tiếp tục, ngay cả sau khi một hiệp định hòa bình doPháp làm trung gian được ký kết tháng 1 năm 2003. Hiệp định này kêu gọiChính phủ chia sẻ quyền lực với phe nổi dậy. Tình hình vẫn còn căng thẳng mặc dầuTổng thống cam kết sẽ khôi phụcdân chủ.

Hậu quả 2004 - 2007

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 2007, những thành tựu nổi bật cũng đã được ghi nhận trong việc tái lập các thẻ chế của nướcCộng hoà này. Đây là kết quả của việc thực hiện Thoả thuận chính trị Ouagadougou ký ngày 4 tháng 3 năm 2007 giữa các bên liên quan đến cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên,Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vẫn tỏ lo ngại về sự chậm trễ trong thực hiện tiến trình hoà bình tại Bờ Biển Ngà theo thoả thuậnOuagadougou. Đến nay, thời điểm dự định cuộc bầu cử Tổng thống vẫn chưa được ấn định.

Chính quyền Ouattara

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày 28 tháng 11 năm 2010 diễn ra cuộc bầu cử tổng thống vòng hai giữa hai ứng cử viên làLaurent Gbagbo, Tổng thống mãn nhiệm (lên nắm quyền từ năm 2000) vàAlasane Ouattara, nguyên là Thủ tướng. Ngày 2 tháng 12 năm 2010, Chủ tịch Ủy ban Bầu cử độc lập Bờ Biển Ngà chính thức thông báo kết quả bầu cử với việc ông Alasane Ouattara giành 54,10% số phiếu (được thế giới thừa nhận là Tổng thống) và ông Laurent Gbagbo giành 45,90% số phiếu. Tuy nhiên, Tổng thống mãn nhiệm Gbagbo đã tố cáo lực lượng phiến loạn miền Bắc nước này gian lận bầu cử và không công nhận kết quả trên. Vì vậy, bạo lực đã nổ ra giữa hai phe ủng hộ hai Tổng thống. Việc ông Gbagbo không chấp nhận thất bại đã đẩy nước này vào cuộc nội chiến với hàng nghìn người bị thiệt mạng và hàng triệu người dân phải chạy khỏi Bờ Biển Ngà. Sau 4 tháng không chịu nhượng bộ, dinh thự của ông Gbagbo bị quân đội của tổng thống đắc cử Alassane Ouattara tấn công hôm 11 tháng 4 và ông Gbagbo bị bắt giữ.

Địa lý

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Địa lý Bờ Biển Ngà
Phân loại khí hậu Köppen của Bờ Biển Ngà

Bờ Biển Ngà là một quốc giaTây Phi hạSahara, bênvịnh Guinea, Đông giápGhana, Tây giápLiberiaGuinea, Bắc giápMaliBurkina Faso. Địa hình được cấu tạo bởi các vùng cao nguyên và núi ở miền Tây; vùng Tây Bắc thoải dần về phía Nam gồm các vùng đồng bằng trầm tích và vùng duyên hải, bờ biển thấp và nhiều cát. Phía Nam chịu ảnh hưởng khí hậuxích đạo tạo điều kiện thích hợp cho các vùng rừng rậm phát triển và chuyển dần sang các khu rừng thưa và các đồng cỏ nhiệt đới ở phía Bắc.

Chính trị

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chính trị Bờ Biển Ngà

Từ năm 1983, thủ đô chính thức của Bờ Biển Ngà làYamoussoukro; tuy nhiên,Abidjan vẫn là trung tâm hành chính của cả nước. Hầu hết các quốc gia khác đều đặt Đại sứ quán tạiAbidjan, ngoại trừ Đại sứ quán Vương quốc Anh đã chấm dứt nhiệm vụ vì những hành động bạo lực và những cuộc tấn công liên tiếp nhằm vào người châu Âu ở Bờ Biển Ngà. Người dân Bờ Biển Ngà lúc này vẫn phải chịu đựng bạo lực tiếp diễn do nội chiến. Các tổ chức quốc tế về nhân quyền đã ghi nhận Bờ Biển Ngà có những vấn đề về đối xử với dân thường bị bắt giữ của cả hai phe trong cuộc nội chiến này và sự tái trỗi dậy việc lạm dụng lao động nộ lệ trẻ em ở các đồn điền cacao.

Mặc dầu chiến sự đã gần như chấm dứt vào năm 2004, nhưng Bờ Biển Ngà vẫn bị chia cắt thành hai phe, phía Bắc nằm dưới quyền kiểm soát của lực lượng "Chiến binh mới"(FN). Cuộc bầu cử tổng thống dự kiến diễn ra vào tháng 10 năm 2005 để đi đến một thỏa thuận giữa các phe phái đối địch đúng vào tháng 3 năm 2007, tuy nhiên cuộc bầu cử này vẫn bị trì hoàn nhiều lần ngay cả trong giai đoạn chuẩn bị.

Các đảng phái chính trị lớn: Liên minh Dân chủ Công dân, Đảng Dân chủ Bờ Biển Ngà, Đảng Lao động Bờ Biển Ngà, Liên minh Dân chủ và Hoà bình, Mặt trận nhân dân Bờ Biển Ngà (Đảng của Tổng thống Gbagbo).

Từ khi độc lập cho đến năm 1990, Đảng Dân chủ luôn nắm quyền tại Bờ Biển Ngà.Tháng 11 năm1990, cuộc bầu cử Quốc hộiđa đảng đầu tiên được tổ chức (có 19 đảng đối lập tham gia) nhưng đảng Dân chủ của ông F.H Boigny vẫn giành đa số tuyệt đối và tiếp tục nắm quyền (148/175 ghế trong Quốc hội).

Phân cấp hành chính

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Vùng của Bờ Biển NgàKhu hành chính của Bờ Biển Ngà
Tỉnh của Bờ Biển Ngà

Bờ Biển Ngà được chia thành 12tỉnh và hai thành phố tự trị cấp tỉnh.Các tỉnh được chia thành 31vùng, các vùng được chia thành 108khu, các khu được chia thành 510phân khu.[17]

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Kinh tế Bờ Biển Ngà
Xuất khẩu của Bờ Biển Ngà vào năm 2019
GDP bình quân đầu người của Bờ Biển Ngà

Tại khu vựcTây Phi, Bờ Biển Ngà có thu nhập bình quân đầu người tương đối cao (1.662 đô la Mỹ vào năm 2017) và đóng vai trò quan trọng trong thương mại quá cảnh của các nước láng giềng. Năm 2016, tỷ lệnghèo đa chiều của Bờ Biển Ngà là 46,1%.[18] Nền kinh tế Bờ Biển Ngà là nền kinh tế lớn nhất trongCộng đồng Kinh tế Tây Phi, chiếm 40% tổng GDP. Bờ Biển Ngà là nước xuất khẩu hàng hóa nhiều thứ tư ởchâu Phi Hạ Sahara (sau Nam Phi, Nigeria và Angola).[19]

Việc duy trì mối liên hệ chặt chẽ vớiPháp sau khi giành độc lập từ năm 1960, tính đa dạng trong xuất khẩu nông nghiệp cũng như việc khuyến khích đầu tư của nước ngoài là những nhân tố chủ yếu của kinh tế Bờ Biển Ngà. Trong những năm trở lại đây, Bờ Biển Ngà phải đối mặt với sự rớt giá và cạnh tranh mạnh mẽ củacà phêca cao trên thị trường nông sản thế giới. Chính điều này cùng với tham nhũng trong nước cao khiến cho cuộc sống cũng như xuất khẩu của người nông dân ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Bờ Biển Ngà là một nước có tài nguyên phong phú, đặc biệt có nhiềukim cương,măng gansắt.

Ngànhcông nghiệp,nông nghiệp của Bờ Biển Ngà phát triển khá cân đối. Bờ Biển Ngà là nhà xuất khẩu hàng đầuthế giới vềca cao và từ vài năm nay nước này còn có thêm nguồn thu xuất khẩu từdầu lửa ngoài khơi. Tuy nhiên thu nhập của Bờ Biển Ngà vẫn dựa chủ yếu vào sản xuấtnông nghiệp (70% dân số sống bằng nghề nông). Bên cạnh đó nền công nghiệp của Bờ Biển Ngà cũng khá phát triển như:công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng dệt,da, hoá chất, khai khoáng, sản phẩmgỗ, sửa chữa và đóng tàu.

Vềngoại thương, năm 2010, kim ngạchxuất khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 10,25 tỷUSD với các sản phẩmca cao,cà phê,gỗ,dầu lửa, bông,chuối,dứa, dầu cọ,. Các đối tácxuất khẩu chính gồmHà Lan 13.92%,Pháp 10.75%,Mỹ 7.79%, Đức 7.2%,Nigeria 6.99%,Ghana 5.56%. Năm 2010, kim ngạchnhập khẩu của Bờ Biển Ngà đạt 7 tỷ USD với các mặt hàng chính làdầu thô, máy móc trang thiết bị,lương thực,thực phẩm. Do sản xuấtlúa trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân nên mỗi năm, Bờ Biển Ngà phải mua khoảng 900.000 tấngạo.

Các đối tác nhập khẩu chính gồmNigeria 20.75%,Pháp 14.19%,Trung Quốc 7.18%,Thái Lan 5.09%.

Mặc dù trải qua gần 1 thập kỷ bất ổn chính trị nhưng Bờ Biển Ngà vẫn được xem là một trong những nền kinh tế hàng đầu khu vựcTây Phi. Với vị trí địa lý chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên,nông nghiệp,lâm nghiệp phong phú, nước này tiếp tục duy trì vai trò là nhà cung cấp hàng hoá vàdịch vụ chính cho các nước láng giềng nhưGuinea,Mali,Burkina Faso... Cảng biểnAbidjan và tuyến đường sắt nối Abidjan với thủ đôOuagadouro (Burkina Faso) vẫn là tuyến đường xuất nhập cảnh ưu tiên, nhất là đối với những nước nằm sâu trong lục địa, mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng chongân sách quốc gia.

Nhân khẩu

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Nhân khẩu Bờ Biển Ngà
Dân số Bờ Biển Ngà
NămSố dân±% năm
19603.709.000—    
19756.709.600+0.00%
198810.815.694+0.00%
199815.366.672+0.00%
201422.671.331+0.00%
202129.389.150+0.00%
202431.500.000+0.00%
Nguồn: Ước tính Liên Hợp Quốc năm 1960,[20] điều tra dân số 1975–1998,[21] điều tra dân số 2014,[22] điều tra dân số 2021,[3] ước tính 2024.[2]

Năm 2021, dân số Bờ Biển Ngà là 29,389,150 người,[3] tăng so với 22,671,331 người vào năm 2014.[22] Trong cuộc điều tra dân số đầu tiên vào năm 1975, dân số Bờ Biển Ngà là 6,7 triệu người.[23] Tổng tỷ suất sinh là 4,3 trẻ con trên một phụ nữ vào năm 2021 (3,6 trẻ con tại khu vực thành thị và 5,3 trẻ con tại khu vực nông thôn), giảm so với 5,0 trẻ con trên một phụ nữ vào năm 2012.[24]

77% dân số là người Bờ Biển Ngà, bao gồm nhiều dân tộc và nhóm ngôn ngữ khác nhau. Ở Bờ Biền Ngà có khoảng 65 ngôn ngữ. Phổ biến nhất là tiếng Dyula, được dùng trong giao dịch buôn bán và những người Hồi giáo.

4% dân số Bờ Biển Ngà không phải là người gốc Phi. Họ là người Pháp,[25]Liban,[26]Việt NamTây Ban Nha.

Một phụ nữ Bờ Biển Ngà

Đô thị hóa

[sửa |sửa mã nguồn]
 
20 cities or towns lớn nhất tại Bờ Biển Ngà
Theo điều tra dân số Bờ Biển Ngà 2014
HạngTênTỉnhDân số
Abidjan
Abidjan
1AbidjanAbidjan4,395,243
2BouakéVallée du Bandama536,719
3DaloaSassandra-Marahoué245,360
4KorhogoSavanes243,048
5YamoussoukroYamoussoukro212,670
6San-PédroBas-Sassandra164,944
7GagnoaGôh-Djiboua160,465
8ManMontagnes149,041
9DivoGôh-Djiboua105,397
10AnyamaAbidjan103,297

Ngôn ngữ

[sửa |sửa mã nguồn]

Tiếng Pháp, ngôn ngữ chính thức của Bờ Biển Ngà, được giảng dạy trong trường học và là ngôn ngữ được sử dụng giữa các nhóm dân tộc khác nhau.

Tôn giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Tôn giáo tại Bờ Biển Ngà (2008)[27]
Tôn giáoTỷ lệ
Hồi giáo
  
39%
Kitô giáo
  
33%
Tín ngưỡng
  
12%
Khác
  
16%

Bờ Biển Ngà là một quốc gia đa tôn giáo. Năm 2021, 42,5% dân số Bờ Biển Ngà theoHồi giáo, chủ yếu làHồi giáo Sunni, 39,8% theoKitô giáo, chủ yếu làCông giáo và Tin Lành. 12,6% dân sốkhông tôn giáo, 2,2% theothuyết vật linh (tôn giáo truyền thống châu Phi), 0,7% theo tôn giáo khác và 2,2% không tuyên bố tôn giáo.[28]

Y tế

[sửa |sửa mã nguồn]

Tính đến năm 2023[cập nhật], tuổi thọ trung bình của người Bờ Biển Ngà là 60,5 tuổi đối với nam giới và 65 tuổi đối với nữ giới.[29] Tính đến năm 2020[cập nhật], tỷ lệ tử vong mẹ là 480/100.000 trẻ; tính đến năm 2023[cập nhật], tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh là 54/1.000 trẻ.[29] Năm 2021, Liên Hợp Quốc ước tính cứ 10.000 người thì có 2,2 bà đỡ.[30]

Tính đến năm 2016[cập nhật], 36,7% phụ nữ Bờ Biển Ngà từ 15 tuổi đến 49 tuổi đã cắt âm vật, có xu hướng giảm so với những năm trước.[31]

Văn hóa

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Văn hóa Bờ Biển Ngà

Văn học, nghệ thuật truyền thống và tượng hình, các công trình kiến trúc

[sửa |sửa mã nguồn]

Văn học Bờ Biển Nga rất đa dạng và phong phú từ phong cách cho đến những câu thành ngữ, tục ngữ có nguồn gốc tương đối vững chắc từ việc biên tập cho đến các tác giả có uy tín. Trong số những tác giả nổi tiếng, có thể kể đếnBernard Dadié, phóng viên, nhà văn, nhà soạn kịch, tiểu thuyết gia và cũng là nhà thơ đã thống trị văn đàn Bờ Biển Ngà ngay từ những năm 30 hay làAké Loba (vớiL'Étudiant noir, 1960) vàAhmadou Kourouma (vớiLes Soleils des indépendances, 1968) đã nhận được giải thưởngPrix du Livre Inter vào năm 1998 cho tác phẩm mà đã trở thành kinh điển đối với văn học châu PhiEn attendant le vote des bêtes sauvages[32].

Nét đặc trưng của nghệ thuật Bờ Biển Ngà xuất hiện trong nhiều vật dụng hàng ngày bằng các chất liệu đa dạng. Nghệ thuật này có mặt trên khắp đất nước, là minh chứng cho phong cách sống ở quốc gia này. Ví dụ như việc đan thúng, điêu khắc, chạm khắc gỗ, tạc tượng đã sử dụng rất nhiều chất liệu như gỗ, đồng, mây và tre...

Một kiểu mặt nạ truyền thống của Bờ Biển Ngà

Mặt nạDan,Baoulés,Gouros,GuérésBétés rất nổi tiếng ở Bờ Biển Ngà. Ngoài ra, nghề dệt tiếng tăm của những người Baoulés và những ngườiSénoufos đã trở thành bộ môn nghệ thuật hội họa trên nền vải. Những bức tượng nhỏ bằng đồng vốn xưa kia dùng để cân vàng nay lại được dùng làm vật trang trí, nhất là trong văn hóaAkan. Tuy nhiên, tất cả người dân Bờ Biển Ngà đều chia sẻ với nhau những vũ điệu truyền thống trên âm thanh của những nhạc cụ phổ biến như (tam-tams,balafon). Một số vũ điệu còn nổi tiếng khắp cả đất nước như:Temate của Facobly, Gouessesso vàDanané,Boloye của vùng sénoufo,Zaouli của vùnggouro. Cũng nên nhắc đến những đồ sành sứ thủ công được chế tác bởi phụ nữ Bờ Biển Ngà, trong số đó nổi tiếng nhất là đồ sành sứKatiola.

Di sản văn hóa này có sẵn và rất dồi dào. Rất nhiều tác phẩm truyền thống (đặc biệt là điêu khắc) được bày bán cho khách du lịch dừng chân ở các thành phố nghỉ mát nổi tiếng nhưGrand-Bassam hayAssinie. Một số khác còn được trưng bày trong các phòng triển lãm nghệ thuật hoặc tại viện bảo tàng văn hóa ở Abidjan.

Một số họa sĩ nhưGilbert G. GroudMichel Kodjo thường xuyên có những tác phẩm giá trị trong khi đó, mảng truyện tranh thuộc về Zohoré Lassane, họa sĩ phác thảo và cũng là người sáng lập ra tờ nhật báo hài hước và châm biếmGbich !.

Có thể thấy ở Bờ Biển Ngà sự đa dạng trong những công trình lịch sử.Grand-Bassam, kinh đô đầu tiên của Bờ Biển Ngà chính là nơi tọa lạc của Dinh tổng trấn (Palais de Gouverneur), nơi đầu tiên chính quyền thuộc địa Pháp đặt trụ sở. Dinh thự này được sơ tác ở Pháp sau đó được xây dựng và hoàn thiện tại chính Bờ Biển Ngà vào năm 1983. Thành phốGrand-Bassam còn có khá nhiều công trình kiến trúc tuyệt đẹp theo lối kiến trúc thuộc địa kết hợp với chất liệu xây dựng bản địa như tòa nhà Varlet hay tòa nhà Ganamet thuộc về những thương gia giàu có.

Abidjan, đại giáo đường Saint-Paul là một công trình kiến trúc rất đặc biệt có 2 mặt được làm hoàn toàn bằng kính theo dấu ấn của những người truyền giáo ở châu Phi. Ở Yamoussoukro, Nhà thờ Đức Bà hòa bình được khánh thành bởi Giáo hoàngJean-Paul II vào năm 1990. Nhà thờ này cũng là phiên bản của Nhà thờ lớn Saint-Pierre ở Roma và có thể đón tiếp 18000 đứng trong điện. Hơn nữa, đó được coi là một trong những kiến trúc tôn giáo lớn nhất trên thế giới vềchiều cao và diện tích.[33][34] Người ta đã tiêu tốn khoảng 300 triệu USD để xây dựng công trình kiến trúc này[35]. Bên cạnh đó, còn phải nhắc đến tòa nhà của Quỹ hòa bình Félix Houphouët-Boigny nổi tiếng.

Ở phía Bắc đất nước, những kiến trúc Hồi giáo theo phong cách Sudan xuất hiện từ thời kì đế chế Mali ở thế kỷ XIV cũng rất đáng chú ý. Theo các chuyên gia, đáng kể nhất trong số đó lànhà thờ Kaouara (tỉnhOuangolodougou), nhà thờ Tengréla, nhà thờ Kouto, nhà thờ Nambira, hai nhà thờ khác ở Kong đều mang giá trị văn hóa, kiến trúc, lịch sử nhất định.[36].

Thể thao, truyền thông, giải trí

[sửa |sửa mã nguồn]
Didier Drogba, cựu đội trưởngđội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà

Người dân Bờ Biển Ngà rất ưa thích thể thao. Từ các sân golf ởAbidjan,YamoussoukroSan-Pédro, Bờ Biển Ngà có thể tổ chức những cuộc thi đấu golf 9 lỗ hoặc 18 lỗ. Hằng năm, giải đấu golf quốc tế mở rộng mang tên Félix Houphouët Boigny vẫn diễn ra đều đặn ở Bờ Biển Ngà với sự tham gia của nhiều vận động viên chuyên nghiệp.

Những vùng phá và biển tạo cho Bờ Biển Ngà cơ hội phát triển nhiều môn thể thao dưới nước như lặn, lướt ván, đua thuyền buồm, canoe-kayak và bóng chuyền bãi biển. Đua ngựa và đua xe cũng rất phổ biến ở Bờ Biển Ngà. Bên cạnh đó còn có bóng ném, bóng rổ, bóng chuyền, bóng bầu dục, điền kinh vàquần vợt.

Tuy nhiên, bóng đá luôn là môn thể thao số một ở Bờ Biển Ngà. Bóng đá thu hút nhiều người dân tham gia tập luyện, kể cả những khu vực hẻo lánh nhất của đất nước. Mỗi thành phố, thậm chí là mỗi khu phố đều tổ chức một giải đấu bóng đá riêng.

Liên đoàn bóng đá Bờ Biển Ngà đã tổ chức và đưa vào thi đấu giải bóng đá cấp quốc gia Bờ Biển Ngà. Trong giải đấu này, hai đội bóng làAfrica Sports NationalASEC Mimosas luôn tỏ ra vượt trội so với các đội bóng còn lại. Rất nhiều cầu thủ Bờ Biển Ngà đang phát triển sự nghiệp ở nước ngoài trong những đội bóng danh giá nhất thế giới. Chính những cầu thủ thi đấu ở nước ngoài này là nguồn lực chính chođội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà ở các giải đấu quốc tế.

Trong quá khứ, với sự dẫn dắt của những cầu thủ như Ben Badi,Gadji Celi etAlain Gouaméné, bóng đá Bờ Biển Ngà đã đạt được những thành công nhất định. Đến thế hệ củaDidier Drogba, Bờ Biển Ngà lần đầu tiên đã góp mặt tại vòng chung kếtGiải vô địch bóng đá thế giới 2006.

Mặt nạ và những bức tượng nhỏ được bày bán trong một khu chợ

Trong lĩnh vực truyền thông, Bờ Biển Ngà có đầy đủ các cơ quan phụ trách nghe nhìn, báo viết, kể cả các cơ quan quản lý chuyên nghiệp tuân theo sự điều hành của Ủy ban quốc gia về báo chí mà sau này là Hội đồng báo chí quốc gia (CNP), Hội đồng nghe nhìn quốc gia (CNCA) và một tổ chức tự quản giám sát đạo đức và tự do báo chí (OLPED).

Từ năm 1991, truyền thông của Bờ Biển Ngà được điều chỉnh bởi luật số 91-1034[37][38][39] về hoạt động báo chí chuyên nghiệp. Đài phát thanh truyền hình Bờ Biển Ngà (RTI) thuộc về nhà nước, được hỗ trợ tài chính nhờ tiền bản quyền, quảng cáo và các nguồn ủng hộ khác. Bao gồm 2 kênh truyền hình và 2 trạm phát thanh:La Première,TV2 - kênh giải trí phát sóng trong khu vực bán kính 200 km ở Abidjan,Radio Bờ Biển Ngà,Fréquence 2 - kênh giải trí,Radio Jam, kênh radio tư nhân đầu tiên của Bờ Biển Ngà;Africahit Music TV.

Nhiều đầu báo khác nhau phần lớn đều tập trung ở Abidjan. Ngoài Tập đoàn báo buổi sáng Bác Ái (Groupe Fraternité Matin) với khoảng 25000 ấn bản mỗi ngày, 15 đầu báo khác đều do các công ty tư nhân nắm giữ.

Mặt nạZaouli trong một vũ điệu lễ hội ở Bờ Biển Ngà

Âm nhạc của Bờ Biển Ngà pha trộn nhiều trào lưu khác nhau, trong đó có thể kể đến những nhạc sĩ tiên phong như Ziglibithy, Gbégbé, Lékiné hay nhóm những nhạc sĩ thuộc thế hệ thứ hai (Zouglou,Zoblazo,Mapouka,Youssoumba...) và nhóm nhạc sĩ thuộc trào lưu hiện đại (Coupé-décalé). Âm nhạc Bờ Biển Ngà là sự kết hợp của nhiều điệu nhạc khiêu vũ.

Hài kịch rất được ưa chuộng ở Bờ Biển Ngà, đặc biệt là tác phẩm trào phúng của Digbeu Cravate, Zoumana, Adjé Daniel, Gbi de Fer,Jimmy Danger, Doh Kanon, Adrienne Koutouan, Marie Louise Asseu, Adama Dahico, Bamba Bakary, duo Zongo và Tao sản xuất, biểu diễn trên sân khấu và truyền hình.

Năm 2004, với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật số, điện ảnh Bờ Biển Ngà đã cho ra đời hàng loạt bộ phim nhưCoupé-décalé (Fadiga de Milano đạo diễn) hayLe Bijou du sergent Digbeu[40] của Alex Kouassi,Signature của Alain Guikou hay làUn homme pour deux sœurs củaMarie-Louise Asseu. Tính cho đến thời điểm hiện tại, trung bình cứ 3 tháng lại có một bộ phim được xuất xưởng. Những bộ phim này còn nhiều yếu kém về kĩ thuật (do hình ảnh hoặc âm thanh) nhưng sự hữu ích của công nghệ kĩ thuật số thật sự đã tạo ra bước ngoặt cho điện ảnh Bờ Biển Ngà.

Lễ hội nghệ thuật châu PhiMarché des arts du spectacle africain - MASA đượcCộng đồng Pháp ngữ tổ chức lần đầu tiên vào năm 1993, đến tháng 3 năm 1998 nhanh chóng trở thành một chương trình có tính chất quốc tế nhằm phát triển những nghệ thuật hiện có tại châu Phi. Chương trình này là một dự án nghệ thuật liên quốc gia của châu Phi bao gồm một hội chợ về nghệ thuật trình diễn, một diễn đàn của những người làm nghệ thuật và một festival diễn ra hai năm một lần ở Abidjan.[41]

Faya Flow là cuộc thi hip hop lớn nhất ở Bờ Biển Ngà. Được tổ chức bởi Hiệp hội Tuổi trẻ Hip hop Năng động (JACH, đọc là "jack") từ năm 2005, cuộc thi này nhằm mục đích thông qua hip hop tìm kiếm, phát hiện và giúp đỡ những tài năng ca hát và văn nghệ cho Bờ Biển Ngà.

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Pronounced/ˌktdˈvwɑːr/KOHT dee-VWAR in English[8] and[kotdivwaʁ] in French.[9]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^ab"RECENSEMENT GENERAL DE LA POPULATION ET DE L'HABITAT 2021 RESULTATS GLOBAUX DEFINITIFS"(PDF).Institut National de la Statistique (INS) (bằng tiếng Pháp). tháng 10 năm 2022.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2023.
  2. ^abcPopulation Reference Bureau."2024 World Population Data Sheet". Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2024.
  3. ^abcInstitut National de la Statistique de Côte d'Ivoire."RGPH 2021 Résultats globaux"(PDF).Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2022.
  4. ^ab"Côte d'Ivoire".The World Factbook.CIA Directorate of Intelligence. ngày 30 tháng 3 năm 2022.Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2022.
  5. ^abcd"World Economic Outlook Database, October 2023 Edition. (CI)".IMF.org.International Monetary Fund. ngày 10 tháng 10 năm 2023.Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  6. ^"Gini Index coefficient".The World Factbook. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2024.
  7. ^"Human Development Report 2025"(PDF) (bằng tiếng Anh).United Nations Development Programme. ngày 6 tháng 5 năm 2025.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
  8. ^"Côte d'Ivoire".Cambridge Dictionary: English Dictionary. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2024.
  9. ^"Cote d'Ivoire definition".Dictionary.com.Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2014.
  10. ^Library of Congress Country Studies,Library of Congress, tháng 11 năm 1988, truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2009
  11. ^(bằng tiếng Pháp)"Loi n° 2000-513 du 1er août 2000 portant Constitution de la République de Côte d'Ivoire"(PDF),Journal Officiel de la République de Côte d'Ivoire,42 (30):529–538, ngày 3 tháng 8 năm 2000,Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009, truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2008.
  12. ^Background Note: Cote d'Ivoire,Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 7 năm 2008, truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2008.
  13. ^(bằng tiếng Pháp)Accord politique de Ouagadougou, Presidency of the Republic of Côte d'Ivoire, ngày 4 tháng 3 năm 2007,Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2009, truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2008
  14. ^Guédé,François Yiodé (1995), "Contribution à l'étude du paléolithique de la Côte d'Ivoire: État des connaissances",Journal des africanistes,65 (2):79–91,doi:10.3406/jafr.1995.2432,ISSN 0399-0346.
  15. ^Rougerie 1978, tr. 246.
  16. ^Kipré 1992, tr. 15–16.
  17. ^Geopolitical Entities, Names, and Codes (GENC) second edition
  18. ^"Multidimensional Poverty Index 2023 Côte d'Ivoire"(PDF).United Nations Development Programme Human Development Reports. 2023.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2024.
  19. ^"Côte d'Ivoire: Financial Sector Profile". MFW4A.org.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2010.
  20. ^United Nations Department of Economic and Social Affairs, Population Division."World Population Prospects 2022".Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2022.
  21. ^Institut National de la Statistique de Côte d'Ivoire."Recensement Général de la Population et de l'Habitat 2014 - Rapport d'exécution et Présentation des principaux résultats"(PDF). tr. 3.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2022.
  22. ^abInstitut National de la Statistique de Côte d'Ivoire."RGPH 2014 Résultats globaux"(PDF).Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2022.
  23. ^"Ivory Coast – Population".countrystudies.us.Library of Congress.Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2011.
  24. ^Institut National de la Statistique de Côte d'Ivoire andICF International."Enquête Démographique et de Santé - Côte d'Ivoire - 2021"(PDF). tr. 10 (21).Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2022.
  25. ^"Ivory Coast – The Economy". Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
  26. ^"Ivory Coast – The Levantine Community". Countrystudies.us. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
  27. ^"Cote d'Ivoire".International Religious Freedom Report for 2015. United States Department of State. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2017.
  28. ^Institut National de la Statistique de Côte d'Ivoire (tháng 10 năm 2022)."Recensement général de la population et de l'habitat 2021 - Résultats globaux définitifs"(PDF) (bằng tiếng Pháp). tr. 41. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2025.
  29. ^abWarner 1988, tr. 7.
  30. ^The State of the World's Midwifery (2021)."Côte d'Ivoire"(PDF).United Nations Population Fund.
  31. ^FGM/C Research Initiative."Côte d'Ivoire".
  32. ^Littérature africaine
  33. ^"Rezo". Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2015.
  34. ^"La C te d'Ivoire sur Internet:: R ligion".Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2015.
  35. ^"Findings:". Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2015.
  36. ^"Mosquées de style soudanais du Nord ivoirien (site en série)". Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2015.
  37. ^(bằng tiếng Pháp) Loi n°91-1033 du 31 décembre 1991 portant régime juridique de la presse, Journal Officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
  38. ^(bằng tiếng Pháp) loi n° 91-1034 du 31 décembre 1991 portant statut des journalistes professionnels,Journal officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
  39. ^(bằng tiếng Pháp) loi n°91-1001 du 27 décembre 1991 fixant le régime de la communication audiovisuelle, Journal Officiel de la République de Côte d'Ivoire, n° 2 du 9 janvier 1992
  40. ^"lematindabidjan.com".Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2015.
  41. ^(bằng tiếng Pháp)"Présentation du Masa".site du Masa.Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2008.

Thư mục

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Chính phủ
Thông tin chung
Tin tức
Du lịch
Wikivoyage có cẩm nang du lịch vềCôte d'Ivoire.
Khác
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềBờ Biển Ngà.
Quốc gia có chủ quyền
Bộ phận của
quốc gia có chủ quyền
Lãnh thổ phụ thuộc
Chủ quyền không rõ
Thành viên
Afghanistan • Albania • Algérie • Azerbaijan • Bahrain • Bangladesh • Bénin • Burkina Faso • Brunei • Cameroon • Tchad • Comoros • Bờ Biển Ngà • Djibouti • Ai Cập • Gabon • Gambia • Guinée • Guiné-Bissau • Guyana • Indonesia • Iran • Iraq • Jordan • Kuwait • Kazakhstan • Kyrgyzstan • Liban • Libya • Maldives • Malaysia • Mali • Maroc • Mauritanie • Mozambique • Niger • Nigeria • Oman • Pakistan • Palestine • Qatar • Ả Rập Xê Út • Sénégal • Sierra Leone • Somalia • Sudan • Suriname • Syria • Tajikistan • Thổ Nhĩ Kỳ • Tunisia • Togo • Turkmenistan • Uganda • Uzbekistan • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất • Yemen
Quan sát viên
Quốc gia và vùng lãnh thổ
Cộng đồng Hồi giáo
Tổ chức quốc tế
Quốc gia thành viên và quan sát viên củaCộng đồng Pháp ngữ
Thành viên
Cờ Cộng đồng
Cờ Cộng đồng
Quan sát viên
* Thành viên dự khuyết.    
Quốc tế
Quốc gia
Địa lý
Nghệ sĩ
Nhân vật
Khác
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bờ_Biển_Ngà&oldid=74224190
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp