Bạc là kim loại rất quý có giá trị lâu dài, được sử dụng làmđồng tiền xu,đồ trang sức, chén đũa và các đồ dùng trong gia đình và như một khoản đầu tư ở dạngtiền xu và nén. Bạc còn là đơn vị tiền tệ trong xã hội phong kiến Á Đông gọi là ngân lượng hay lượng bạc. Kim loại bạc được dùng trong công nghiệp làm chất dẫn và tiếp xúc, trong gương và trong điện phân của cácphản ứng hóa học. Các hợp chất của nó được dùng trong phim ảnh và bạc nitrat pha loãng được dùng làm chất tẩy khuẩn. Trong khi nhiều ứng dụngkháng sinh y học của bạc đã được thay thế bởi kháng sinh sinh học, nghiên cứu lâm sàng sâu hơn vẫn đang tiếp tục thực hiện.
Bạc được tạo ra từ các nguyên tố nhẹ hơn trongvũ trụ quaquá trình r, một dạng củaphản ứng phân hạch hạt nhân được cho là đã diễn ra trong những thời điểm nhất định của cácvụ nổ big bang. Quá trình này tạo ra nhiều nguyên tố nặng hơnsắt, trong đó có bạc.[2]
Bạc là kim loại mềm, dẻo, dễ uốn (cứng hơnvàng một chút), có hóa trị một, để đúc tiền, có màu trắng bóng ánh kim nếu bề mặt có độ đánh bóng cao. Bạc có độ dẫn điện tốt nhất trong các kim loại, cao hơn cảđồng, nhưng do giá thành cao nên nó không được sử dụng rộng rãi để làm dây dẫn điện như đồng. Một ngoại lệ là trong kỹ thuật tần số radio, đặc biệt ở dảiVHF và cao hơn, bạc mạ được sử dụng để tăng tính dẫn điện của một số bộ phận như dây dẫn. TrongChiến tranh thế giới thứ hai ởHoa Kỳ, 13.540 tấn bạc được sử dụng trongđiện từ dùng để làm giàuurani, chủ yếu là do thời chiến khan hiếm đồng.[3][4][5]
Bạc nguyên chất có độ dẫn nhiệt cao nhất, màu trắng nhất, độ phản quang cao nhất (mặc dù nó là chất phản xạtia cực tím rất kém),[6] và điện trở thấp nhất trong các kim loại. Các muối halogen của bạc nhạy sáng và có hiệu ứng rõ nét khi bị chiếu sáng. Kim loại này ổn định trong không khí sạch vànước, nhưng bị mờ xỉn đi trongôzôn,acid clohydric, hay không khí có chứalưu huỳnh. Trạng thái oxy hóa ổn định nhất của bạc là +1 (chẳng hạn nhưnitrat bạc: AgNO3); ít gặp hơn là một số hợp chất trong đó nó có hóa trị +2 (chẳng hạn nhưfluoride bạc (II): AgF2) và +3 (chẳng hạn như tetrafluoroargentat kali: K[AgF4]).[7]
Bạc được tìm thấy ở nhà duy khơi, liên kết vớilưu huỳnh,asen,antimon, hayclo trong các loại khoáng chất nhưargentit (Ag2S) vàbạc chloride (AgCl). Các nguồn cơ bản của bạc là các khoáng chất chứa đồng, đồng-niken, vàng, chì và chì-kẽm có ởCanada,México,Peru,Úc vàMỹ.Peru,Bolivia vàMéxico đã và đang khai thác bạc từ năm1546, và vẫn là các nước sản xuất bạc lớn trên thế giới. Các mỏ bạc lớn nhưCannington (Úc), Fresnillo (Mexico), San Cristobal (Bolivia), Antamina (Peru),Rudna (Ba Lan), vàPenasquito (Mexico).[8] Các dự án phát triển mỏ ngắn hạn đến năm 2015 là Pascua Lama (Chile), Navidad (Argentina), Jaunicipio (Mexico), Malku Khota (Bolivia),[9] và Hackett River (Canada).[8] ỞTrung Á, mỏTajikistan được biết là một trong những nơi có lượng bạc lớn nhất trên thế giới.[10]
Bạc cũng được sản xuất trong quá trình làm tinh khiết đồng bằngđiện phân. Các loại bạc trong thương mại có độ tinh khiết ít nhất 99,9% và cũng có khi cao hơn 99,999%. Mexico là nước sản xuất nhiều bạc nhất. Theo số liệu của Bộ Kinh tế Mexico, năm2000 nước này sản xuất 2.747 tấn, khoảng 15% của sản lượng thế giới hàng năm. Năm2011, Mexico là nước sản xuất bạc lớn nhất (4.500 tấn chiếm 19% sản lượng thế giớil), theo sau là Peru (4.000 t) vàTrung Quốc (4.000 t)[11]
Bạc trong tự nhiên là hỗn hợp của hai đồng vị ổn định Ag107 và Ag109 với Ag107 là phổ biến nhất (51,839%). Các đồng vị của bạc hầu hết có sự phong phú như nhau, là một điều rất hiếm đối với các nguyên tố trong bảng tuần hoàn. Khối lượng nguyên tử của bạc là 107,8682(2) g/mol.[12][13] 28 đồng vị phóng xạ đã được tìm thấy với đồng vị ổn định nhất là Ag109 với chu kỳ bán rã 41,29 ngày, Ag111 với chu kỳ bán rã 7,45 ngày, và Ag112 với chu kỳ bán rã 3,13 giờ. Mọi đồng vị phóng xạ còn lại có chu kỳ bán rã không quá 1 giờ và thông thường là dưới 3 phút. Nguyên tố này cũng có một loạt các trạng thái đồng phân của nguyên tử với ổn định nhất là Agm-128 (t* 418 năm), Agm-110 (t* 249,79 ngày) và Agm-107 (t* 8,28 ngày).
Các đồng vị của bạc nằm trong khoảng khối lượng nguyên tử từ 93,943 amu Ag94 tới 126,936 amu Ag124.[14] Chế độ phân rã cơ bản trước khi có đồng vị ổn định nhất, Ag107, là chiếm giữ điện tử và chế độ cơ bản sau đó làbức xạ beta. Các sản phẩm cơ bản của phân rã trước Ag107 là các đồng vị củapalađi (số 46) và sản phẩm cơ bản của phân rã sau là các đồng vị củacadmi (số 48).
Đồng vị palađi Pd109 phân rã bằng bức xạ beta thành Ag107 với chu kỳ bán rã 6,5 triệu năm. Cácthiên thạch chứa sắt là các vật thể duy nhất với tỷ lệ Pd/Ag đủ cao để tính toán các tham số có thể đo được trong tính sự phổ biến của Ag107. Ag107 do phóng xạ sinh ra lần đầu tiên được phát hiện ở thiên thạch ởSanta Clara năm1978.[15] Những người phát hiện cho rằng sự hợp nhất và phân biệt của lõi sắt của cáctiểu hành tinh có thể diễn ra 10 triệu năm sau các kết quả tổng hợp hạt nhân. Các tương quan Pd107 trên Ag được quan sát trong cácthiên thể, mà nó đã bị nung chảy rõ ràng kể từ sự lớn dần lên củahệ Mặt Trời, phải phản ánh sự hiện diện của các hạt nhân có chu kỳ sống ngắn trong thời kỳ đầu củahệ Mặt Trời.[16]
Kim loại bạc dễ dàng hòa tan trongacid nitric (HNO 3) tạo rabạc nitrat (AgNO 3), một chất rắn kết tinh trong suốt nhạy sáng và dễ hòa tan trong nước. Bạc nitrat được dùng làm chất khởi đầu trong việc tổng hợp các hợp chất bạc khác nhưkhử trùng, và tạo màu vàng cho thủy tinh củakính màu. Kim loại bạc không phản ứng với acid sulfuric, nên acid này được dùng trong làm đồ trang sức để làm sạch và loại bỏ đồng oxide từ các vòng bằng bạc sau khi hàn bạc hoặc ủ. Bạc dễ dàng phản ứng với lưu huỳnh hoặchydro sulfideH 2S tạo rabạc sulfide, một hợp chất màu tối tương tự như xỉn của các đồng xu bạc và các vật liệu bằng bạc khác. Bạc sulfideAg 2S cũng tạo rarâu bạc khi công-tắc điện bằng bạc được sử dụng trong không khí giàuhydro sulfide.
4Ag + O2 + 2H2S → 2Ag2S + 2H2O
Bạc chloride (AgCl) được kết tủa từ các dung dịch bạc nitrat với sự có mặt của các ion chloride, và các muối bạc halide khác được dùng trong sản xuấtnhũ tương phim cũng làm bằng cách tương tự, dùng các muốibromide hoặciodide. Bạc chloride được dùng làm điện cực thủy tinh trong thử nghiệmpH và đopotentiometric, và làm xi-măng không màu cho thủy tinh.Bạc iodide từng được dùng trong việc gây mưa nhân tạo. Các bạc halide không có tính hòa tan trong các dung dịch gốc nước và được dùng trong các phương pháp phân tích trọng lực.
Bạc oxit (Ag 2O) được tạo ra khi các dung dịch bạc nitrat cho phản ứng với base, nó được dùng làm điện cực dương (anode) trong pin đồng hồ.Bạc cacbonat (Ag 2CO 3) được kết tủa khi cho bạc nitrat phản ứng với natri cacbonat (Na 2CO 3).[17]
2 AgNO3 + 2 OH− → Ag2O + H2O + 2 NO3−
2 AgNO3 + Na2CO3 → Ag2CO3 + 2 NaNO3
Bạc fulminat (AgONC), một chất nổ rất mạnh khi chạm vào được dùng trongkíp nổ được tạo ra bằng phản ứng giữa bạc kim loại với acid nitric với xúc tácetanol (C 2H 5OH). Các hợp chất nổ bằng bạc nguy hiểm khác nhưbạc azua (AgN 3), được tạo ra bằng phản ứng giữabạc nitrat vớinatri azua (NaN 3),[18] vàbạc acetylide, được tạo ra khi bạc phản ứng với khí acetylen.
Latent image được tạo ra khi các tinh thể bạc halide được phát triển bằng các cho phản ứng với các dung dịch kiềm làm tác nhân oxy hóa nhưhydroquinone,metol (4-(methylamino)phenol sulfat) hoặcvitamin C, làm oxy hóa halide thành kim loại bạc. Các dung dịch kiềm của bạc nitrat có thể bị khử thành bạc kim loại bằng các loại đường khử nhưglucose, và phản ứng này được dùng trong tráng gương bạc và kính trang trí giáng sinh. Các loại bạc halide hòa tan trong các dung dịchnatri thiosulfat (Na 2S 2O 3) loại này được dùng làm tác nhân cố định ảnh, để loại bỏ lượng bạc halide thừa trong nhũ tương ảnh sau khi rửa phim.[17]
Kim loại bạc bị oxy hóa mạnh bởi các chất oxy hóa nhưkali permanganat (KMnO 4) vàkali dichromat (K 2Cr 2O 7), và có mặt củakali bromide (KBr); các hợp chất này được sử dụng trong nhiếp ảnh để tẩy các hình ảnh gây ra bởi bạc, chuyển chúng thành bạc halide mà có thể được cố định bằngthiosulfat hoặc tái phát triển để tăng cường ảnh gốc. Bạc hình thành các dạng phứccyanide (bạc xyanua) là dạng hòa tan trong nước với sự có mặt của các ion cyanide dư. Các dung dịch bạc cyanide được dùng trong mạ điện bạc.[17]
Mặc dù bạc thường có trạng thái oxy hóa +1 trong các hợp chất, các trạng thái oxy hóa khác cũng được biết đến như +3 trong AgF3, được tạo ra bằng phản ứng của bạc nguyên tố hoặcbạc fluoride vớikrypton difluoride.[19]
Ứng dụng cơ bản nhất của bạc là như mộtkim loại quý và các muốihalôgen. Đặc biệtbạc nitrat được sử dụng rộng rãi trongphim ảnh (đây là ứng dụng nhiều nhất của bạc). Các ứng dụng khác còn có:
Các sản phẩm điện và điện tử, trong đó cần có tính dẫn điện cao của bạc, thậm chí ngay cả khi bị xỉn. Ví dụ, các bảng mạch in được làm từ sơn bạc, bàn phímmáy tính sử dụng các tiếp điểm bằng bạc. Bạc cũng được sử dụng trong các tiếp điểm điện cao áp vì nó là kim loại duy nhất không đánhhồ quang ngang qua các tiếp điểm, vì thế nó rất an toàn.
Các loạigương cần tính phản xạ cao của bạc đối với ánh sáng được làm từ bạc như là vật liệu phản xạ ánh sáng. Các loại gương phổ biến có mặt sau được mạnhôm.
Bạc được sử dụng để đúc tiền từ năm700 TCN bởingười Lydia, trong dạng hợp kim của vàng và bạc. Muộn hơn, bạc được làm tinh khiết và đúc tiền trong dạng nguyên chất. Các từ "bạc" và "tiền" là có cùng ý nghĩa trong ít nhất 14ngôn ngữ.
Kim loại này được chọn vì vẻ đẹp của nó trong sản xuấtđồ trang sức và đồ bạc, thông thường làm từ hợp kim của bạc được xem như làbạc đủ tuổi, chứa 92,5% bạc.
Dễ uốn, không độc và vẻ đẹp của bạc làm cho nó có lợi trongnha khoa để làm răng giả.
Thuộc tính xúc tác của bạc làm cho nó thành lý tưởng để sử dụng như một chấtxúc tác trong các phản ứng oxy hóa - khử; ví dụ, việc sản xuấtfomanđêhít từmêtanol và không khí bằng các tấm lọc bằng bạc hay các chấtkết tinh chứa tối thiểu 99,95% bạc theo trọng lượng.
Bạc được sử dụng để làm que hàn,công tắc điện và các loạipin dung tích lớn như pin bạc-kẽm hay bạc-cadmi.
Oxide bạc được sử dụng làm cực dương (anos) trong các pin đồng hồ.
Bạc được dùng làm chất khử trùngnước. Chỉ cần 10 ppb thì đủ để khử trùng. Ứng dụng này đã được biết từ thời cổ đại, và có thể giải thích tại sao người ta thường thấy nhiều đồng bạc ở dưới các giếng nước.[20]
Ký hiệu của bạc làAg có nguồn gốc từ chữArgentum trongtiếng Latinh. Bạc đã được biết đến từ thời tiền sử, nó được nhắc tới trongSáng thế ký (quyển đầu củaCựu Ước), các đống xỉ chứa bạc đã được tìm thấy ởTiểu Á và trên các đảo thuộcbiển Aegean chứng minh rằng bạc đã được tách ra khỏichì từ thiên niên kỷ thứ 4 TCN.[21][22] Bạc được sử dụng trong hàng nghìn năm để trang trí và như đồ dùng gia đình, để buôn bán và làm cơ sở cho nhiều hệ thống tiền tệ. Trong một thời gian dài nó được coi là kim loại quý thứ hai sau vàng.
Sự ổn định của tiền La Mã dựa vào một mức độ cao của việc cung cấp các thỏi bạc, mà các thợ mỏ La Mã sản xuất ra trên quy mô chưa từng có trước khi phát hiện ra Tân Thế giới. Lúc đỉnh đạt 200 tấn/năm, ước tính khoảng 10.000 t được xoay vòng trong nền kinh tế La Mã vào giữa thế kỷ II, lớn hơn 5 đến 10 lần tổng lượng bạc có được vào thời Trung cổ châu Âu vàCaliphate vào khoảng năm 800.[23][24] Các mỏ được khai thác từ thời Laureion năm 483 TCN.[25]
Trong mối liên quan vớiMặt Trăng cũng như với đại dương và các nữ thần Mặt Trăng, kim loại này đã được các nhà giả kim thuật nhắc đến với tênLuna. Một trong những ký hiệu của giả kim thuật để chỉ bạc là trăng lưỡi liềm với phần lưỡi về phía bên trái.Thủy ngân đã từng được cho là một loại hình của bạc, mặc dù hai nguyên tố này là không có liên quan gì xét theo phương diện hóa học; tên gọi của nóhydrargyrum ("bạc lỏng") và từtiếng Anhquicksilver chứng thực điều đó. Trong phù hiệu học, màu bạc (argent haysilver), cũng có thể là màu trắng.Rio de la Plata đã được đặt tên theo bạc (trongtiếng Tây Ban Nha làplata), và nó đã được vay mượn ý nghĩa để chỉ tên củaArgentina. Khác với nhiều nguyên tố khác được đặt tên theo một địa danh (nơi được khám phá hay là quê hương của người khám phá), bạc là nguyên tố duy nhất có một quốc gia được đặt theo tên nó.[26]
Người châu Âu đã tìm thấy rất nhiều bạc ởTân Thế giới ởZacatecas vàPotosí, nó đã tạo ra một thời kỳ lạm phát ở châu Âu. Ở châu Mỹ, công nghệ bạc-chì nhiệt độ cao đã được phát triển trong các nền văn minh tiền Inca vào khoảng năm 60–120.[27]
Đến 26 tháng 8 năm 2013, giá bạc là 773 USD/kg (24,04 USD/ounce[28]) tương đương khoảng 1/58 giá vàng. Giá các thỏi bạc cao hơn bạc lá, với số tiền đổi tăng khai nhu cầu cao và thị trường địa phương khan hiếm.[29]
Năm 1980, giá bạc tăng đến đỉnh trong thời kỳ hiện đại là 49,45USD per ounce (ozt) dolũng đoạn thị trường củaNelson Bunker Hunt và Herbert Hunt. Điều chỉnh lạm phát theo năm 2012, giá này tương đương 138 USD/ounce. Đôi lúc sau ngày thứ bảy Bạc, giá giảm xuống còn 10USD/ozt.[30] Từ 2001 đến 2010, giá tăng từ 4,37 pound lên 20,19 pound (trung bình London US$/oz).[31] Theo Viện nghiên cứu bạc, sự gia tăng gần đây do bắt nguồn rất nhiều từ sự gia tăng lợi ích nhà đầu tư và sự gia tăng nhu cầu chế tạo.[31] Vào cuối tháng 4 năm 2011, bạc tăng lên mức $49.76/ozt.
Thời kỳ trước đây, bạc có giá cao hơn nhiều. Vào đầu thế kỷ XV, giá bạc ước khoảng hơn $1.200 một ounce, theo giá đô la năm 2011.[32] Việc phát hiện ra nhiều mỏ bạc trong Tân Thế giới trong các thế kỷ sau đó đã làm cho giá bạc giảm xuống nhiều.
Giá bạc quan trọng trong luật Do thái. Giá này được cố định ở 0,025 gam (0,00088 oz) đối với bạc nguyên chất, không tinh chế ở giá thị trường. Trong truyền thống Do Thái, vẫn tiếp tục ngày hôm nay, vào ngày sinh nhật đầu tiên của con trai đầu lòng, cha mẹ phải trả năm đồng tiền bạc ròng choKohen (linh mục). Ngày nay cơ quan đúc tiền Israel cố định các đồng tiền ở mức 117 gam (4,1 oz) bạc.Kohen sẽ trả lại lượng tiền bạc này như một món quà cho đứa bé.[33]
Trong y học, bạc được đưa vào băng vết thương và được sử dụng như một lớp phủ kháng sinh trong các thiết bị y tế. Vết thương băng chứa bạc sulfadiazine hoặc bạc vật liệu nano được sử dụng để điều trị nhiễm trùng bên ngoài. Bạc cũng được sử dụng trong một số ứng dụng y tế, chẳng hạn như ống thông niệu (nếu có bằng chứng dự kiến cho thấy nó làm giảm ống thông liên quan đến nhiễm trùng đường tiết niệu) và trong ống thở nội khí quản (nếu có bằng chứng cho thấy nó giảm liên quan máy thở viêm phổi). [56][57] các bạc ion (Ag +) Là hoạt tính sinh học và đủ nồng độ có thể giết chết vi khuẩntrong ống nghiệm . Bạc và bạc hạt nano được sử dụng như một kháng sinh trong một loạt các công nghiệp, y tế, và các ứng dụng.
^Oman, H. (1992). "Not invented here? Check your history".Aerospace and Electronic Systems Magazine. Quyển 7 số 1. tr. 51–53.doi:10.1109/62.127132.ISSN0885-8985.
^Riedel, Sebastian; Kaupp, Martin (2009). "The highest oxidation states of the transition metal elements".Coordination Chemistry Reviews. Quyển 253 số 5–6. tr. 606–624.doi:10.1016/j.ccr.2008.07.014.
^abCPM Group (2011).CPM Silver Yearbook. New York, NY: Euromoney Books. tr. 68.ISBN978-0-9826741-4-7.
^Kelly, William R.; Wasserburg, G. J. (1978). "Evidence for the existence of107Pd in the early solar system".Geophysical Research Letters. Quyển 5 số 12. tr. 1079.Bibcode:1978GeoRL...5.1079K.doi:10.1029/GL005i012p01079.
^de Callataÿ, François (2005). "The Greco-Roman Economy in the Super Long-Run: Lead, Copper, and Shipwrecks".Journal of Roman Archaeology. Quyển 18. tr. 361–372 (365f.).
^Abolafia, Mitchel Y; Kilduff, Martin (1988). "Enacting Market Crisis: The Social Construction of a Speculative Bubble".Administrative Science Quarterly. Quyển 33 số 2. tr. 177–193.doi:10.2307/2393054.JSTOR2393054.
^Living Judaism: the complete guide to Jewish belief, tradition, Wayne D. Dosick – 1995 "The price was set at five shekalim (the plural of shekel, the monetary unit of the time) for each of the 273 extra firstborn (Numbers 3:47). The money was given to Aaron, the High Priest, the head of the tribe of Levi."