Bắt đầu từ trước thế kỉ II TCN, hai nền văn minh ở châu Á làTrung Quốc vàẤn Độ bắt đầu tiến hành trao đổi hàng hoá, đi qua đi lại ở các nơi. Vào thờicổ đại có bốn con đường khả dĩ đi từTrung Quốc đếnẤn Độ:
Trong đó hai đường bộ trước điẤn Độ hoàn toàn hiểm trở, vì vậy đại đa số thương buôn đều chọn dùng hai đường đi sau, đặc biệt là đường biển. Do hai đường đi sau đều phải đi qua các nước thuộc bán đảo Đông Dương, cho nên khu vực này hoặc những quốc gia này bịchính trị và văn hoá củaTrung Quốc vàẤn Độ ảnh hưởng.[2][3]
Bán đảo Đông Dương bao gồm năm nước bao gồm:Việt Nam,Lào,Campuchia,Myanmar vàThái Lan vàMalaysia bán đảo, là bán đảo lớn thứ ba trên thế giới.[5] Diện tích chừng 2,151 triệu kilômét vuông, chiếm khoảng 46% diện tíchĐông Nam Á. Đường bờ biển dài hơn 11.700 kilômét, có nhiều vịnh cảng trọng yếu. Địa thế phía bắc cao phía nam thấp, phần nhiều đất đồi núi và cáccao nguyên. Vùng đất phía bắc làcao nguyên Shan cao lớn và cổ xưa, chiều cao từ 1.500 đến 2.000 mét so với mực nước biển. Nhiềudãy núi duỗi dài từ nam lên bắc có hình quạt, hình thành cấu trúc địa hình:cao nguyên Shan và sự phân bố xen kẽ giữanúi và thung lũng ở phía nam.
Địa thế phía bắc cao phía nam thấp, phần lớn là đồi núi vàcao nguyên. Phía bắc làcao nguyên Shan cao lớn cổ xưa, chiều cao từ 1.500 đến 2.000 mét so với mực nước biển. Nhiềudãy núi duỗi dài từ nam lên bắc có hình quạt, hình thành cấu trúc địa hình:cao nguyên Shan và sự phân bố xen kẽ giữanúi và thung lũng ở phía nam. Dãy núi chủ yếu từ tây sang đông lần lượt là dãy núi Naga,dãy núi Arakan; dãy núi Daen Lao, dãy núi Tenasserim, dãy núi Bilauktaung;dãy núi Trường Sơn.[6]
Bán đảo Đông Dương có đủ ba đặc điểm rõ ràng. Đầu tiên, địa thế về tổng thể phía bắc cao phía nam thấp, phần lớn là đồi núi vàcao nguyên, núi sông xét về cơ bản đi theo hướng nam bắc, hơn nữa núi sông sắp xếp xen kẽ, địa thế bán đảo giống như hình dạng lòng bàn tay. Thứ hai, địa thế lâu ngày đã bịxói mòn cho nên có dạng nửa đồng bằng,địa hình các-xtơ phát triển, trongvận động tạo núi ởkỉ Đệ Tam địa khối Ấn Độ - Mã Lai cũng có hiện tượng nâng lên vàđứt gãy. Thứ ba,đồng bằng phần lớn phân bố ở khu vực duyên hải phía đông nam, chủ yếu làđồng bằng bồi tích vàtam giác châu có diện tích rộng lớn ở hạ du các sông cả.
Dãy núi vàcao nguyên ở bán đảo Đông Dương chủ yếu có dãy núi Naga,dãy núi Arakan ở phía tây, là dãy núi hình vòng cung nhô ra về phía tây,[7] phần lớn có chiều cao trên 1.800 mét so với mặt nước biển, chiều dài chừng 1.100 kilômét, bao gồm rất nhiều dãy núi song song, là bộ phận nối dài về phía nam củadãy núi Himalaya, đồng thời tiếp tục duỗi dài về phía nam. Phía đông làdãy núi Trường Sơn có chiều nam - bắc dài hơn 1.000 kilômét chạy dọc qua lãnh thổ ba nước Việt-Lào-Cam, sườn tây của dãy núi thoai thoải, dần dần chuyển tiếp sang cao nguyên trong lãnh thổLào vàCampuchia, thí dụ cao nguyênXiengkhuang, cao nguyênHuaphanh, cao nguyênKhammuane và cao nguyên Bolaven; sườn của đông dãy núi khá dốc, ép sátbờ biển, hình thành rất nhiều vách núi cao chót vót vàmũi đất lấn ra biển. Trung bộ là bộ phận kéo dài nối dài về phía nam củadãy núi Hoành Đoạn, có núi Daen Lao, núi Tenasserim và núi Bilauktaung ở biên giớiMyanmar vàThái Lan, kéo dài về phía nam đếnbán đảo Mã Lai, các khối núi ởMyanmar vừa rộng vừa cao, trở thành cao nguyên có diện tích lớn nhất ởĐông Nam Á -cao nguyên Shan, phía đôngThái Lan cócao nguyên Khorat.
Đồi núi và cao nguyên ở bán đảo Đông Dương đãxói mòn trong khoảng thời gian dài, phần lớn đỉnh núi có hình tròn trĩnh, cao nguyên phát triển bề mặt xói mòn.Bán đảo Mã Lai và bán đảo Đông Dương thông thường lấyeo đất Kra làm ranh giới. Về phương diện địa thế kiến tạo,bán đảo Mã Lai là một bộ phận của địa khối Ấn Độ - Mã Lai, đồi núi nằm ở trung bộ, thấp về hai bên đông và tây. Đồi núi trung bộ bao gồm 8 dãy núi về cơ bản song song với nhau, chạy dọc theo hướng nam bắc, do từ lâu đãxói mòn nên độ cao không lớn, làm lộ rađá phần lớn làđá hoa cương,đá phiến ma vàđá vôi, núi Tahan có đỉnh núi cao nhấtbán đảo Mã Lai là 2.187 mét.Cao nguyên Shan cao từ 1.000 - 1.300 mét so với mặt nước biển, chủ yếu do tầngđá vôi thờiĐại Cổ sinh vàĐại Trung sinh tạo thành, đồng thời cóđá hoa cương - một thể xâm nhập. Trên mặt cao nguyên có rất nhiềuhẻm núi cắt sâu và đỉnh núi cao hơn mặt đất 800 đến 900 mét. Dãy núi và rãnh suối đan chéo lẫn nhau, mặt đấtxói mòn mãnh liệt, vùng đất phía tây có mộtđứt gãy lớn có chiều nam bắc lớn dài 600 đến 700 kilômét.Cao nguyên Khorat ở phía đôngThái Lan, phần lớn cao từ 150 đến 300 mét so với mặt nước biển, dosa thạch đỏ hợp thành, địa thế nghiêng từ tây sang đông, cho nên mặt đất nhấp nhô không bằng phẳng. Ở cao nguyên Shan và phía bắc củaViệt Nam vàLào, phân bố rộng khắp địa thếcác-xtơ, là khu phong cảnh nổi tiếng.
Dãy núi Naga vàdãy núi Rakhine cao khoảng 3.000 mét so với mặt nước biển, dài 1.100 kilômét, là bức vách tự nhiên giữaMyanmar,Ấn Độ vàBangladesh, giữa núi có một sốđèo là con đường thông suốt mà các sắc tộc di cư vào thời cổ đại. Núi Daen Lao, dãy núi Tenasserim và dãy núi Bilauktaung chạy dọc biên giớiMyanmar vàThái Lan, có sốđèo nổi tiếng nằm giữa núi là cửa ải hiểm yếu của cuộc hành quân tác chiến giữaMyanmar vàThái Lan trong lịch sử. Núi Phetchabun,núi Dong Phaya Yen và núi Sankamphaeng chạy dọc ở giữa bán đảo, là chỗ phân chia cảnh quan khác nhau của hai phần đông tây bán đảo.Dãy núi Trường Sơn ở phía đông cao không đến 1.500 mét so với mặt nước biển, dài hơn 1.000 kilômét, là dãy núi chạy dọc qua biên giới ba nước Việt-Lào-Cam. Giữa các núi có rất nhiều cao nguyên, nổi tiếng nhất làcao nguyên Shan, cao nguyênXiengkhuang, cao nguyênHuaphanh, cao nguyênKhammuane, cao nguyên Bolaven vàcao nguyên Đắk Lắk, tất cả đều có sẵn ý nghĩa đặc thù ở các phương diện nhưđịa mạo,khí hậu,lịch sử,sắc tộc,giao thông và sản xuấtnông nghiệp,chăn nuôi gia súc.
Khí hậu gió mùa nhiệt đới phân bố ở các nơi nhưNam Á và bán đảo Đông Dương, đặc điểm của nó là nhiệt độ cao quanh năm, nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất cũng trên 18℃,giáng thuỷ có mối quan hệ mật thiết vớihướng gió,mùa đông thịnh hànhgió mùa Đông Bắc đến từ lục địa, giáng thuỷ ít,mùa hạ thịnh hànhgió mùa Tây Nam đến từẤn Độ Dương, giáng thuỷ dồi dào, phần lớn khu vực có lượng giáng thuỷ hằng năm từ 1.500 đến 2.000 milimét, nhưng có một số khu vực cao hơn con số đó. Lượng giáng thuỷ trung bình năm chịu sự ảnh hưởng củađịa mạo, ở bên sườn đón gió đạt 5.000 milimét, nhưng ở bên sườn trái gió thì không đến2.000milimét. Cá biệt sườn đón gió và khu vựcbán đảo Mã Lai hình thành cảnh quanrừng mưa nhiệt đới, thiểu sốđồng bằng vàthung lũng trong bán đảo hình thànhthảo nguyên nhiệt đới.
Nằm giữa đồi núi và cao nguyên, các sông cả ởĐông Nam Á xuôi theo địa thế từ bắc xuống nam chảy xiết rồi đổ vào biển, từ đông sang tây lần lượt làsông Hồng,sông Mê Kông,sông Chao Phraya,sông Salween vàsông Irrawaddy. Trong một số sông cả này, con sông chảy qua nhiều quốc gia nhất làsông Mê Kông, cuối cùng đổ vào biển thông qua hệ thống sông ngòi củađồng bằng sông Cửu Long. Bán đảo Đông Dương có nhiềutam giác châu, nổi tiếng làtam giác châu sông Mê Kông, tam giác châu sông Irrawaddy,tam giác châu sông Hồng và tam giác châu sông Chao Phraya. Những tam giác châu này do sông cảbồi tích mà hình thành, diện tích rộng lớn, địa thế thấp bằng, mạng lưới sông ngòi của các tam giác châu dày đặc như mạng nhện, nhiềuao đầm, tốc độ mở rộng về phía biển khá nhanh.
^Ba bán đảo lớn trên thế giới (tiếng Anh:Three largest peninsulas in the world), chỉbán đảo Ả Rập, bán đảo Ấn Độ và bán đảo Đông Dương.
^Đèo Keriya (tiếng Anh:Keriya Pass), là ranh giới giữahuyện Vu Điền thuộcđịa khu Hoà Điền,Tân Cương vàhuyện Nhật Thổ thuộcđịa khu A Lí,Tây Tạng, đường cổ Keriya về phương diện lịch sử là con đường chủ yếu từTân Cương thông đếnTây Tạng. nằm ở chỗ tiếp giáp giữa tây đoạn và trung đoạn củadãy núi Côn Lôn, cao khoảng 5.450 mét so với mặt nước biển. Đường cổ Keriya chia làm hai nhánh: nhánh tây điVu Điền, chủ yếu đi dọc khu vựcthung lũng sông Kulapu - sông Keriya, tuyến đường khá ngắn; phía đông điDân Phong vàThả Mạt, chủ yếu đi vào khu vực hẻm núi của dãy núi Kashitashi, tuyền đường rất dài. Mọi người thường coi trọng tuyến phía tây. Ở chỗ sát gần phía bắc của đèo là nơi phát nguyên của sông Keriya, chỗ sát gần phía tây là nơi phát nguyên của sông Yurungkash. Nhìn từ góc độ địa hình, độ dốc của đèo này không lớn, tương đối bằng phẳng, đặc điểmđường phân thuỷ rất không rõ ràng.