Tên gốc theotiếng Armenia làHayq, sau nàyHayastan.Hayasa, gắn với hậu tốtiếng Ba Tư '-stan' (đất đai).Haik là một trong những lãnh đạo kiệt xuất người Armenia và cái tênMiền đất của Haik đã được đặt theo tên ông. Theo truyền thuyết, Haik là chút củaNoah (con trai củaTogarmah, người là con củaGomer, người là con củaJapheth, người là con của Noah), và theo truyền thống cổ Armenia, một tổ tiên của toàn bộngười Armenia. Ông cũng được cho là đã định cư bên dưới chânnúi Ararat, đã đi tham gia vào việc xây dựngtháp Babel, và, sau khi quay trở lại, đánh bại vuaBabylon là Bel (được một số nhà nghiên cứu cho làNimrod) ngày11 tháng 8 năm2492 TCN gần núiLake Van, ở phía nam Armenia trong lịch sử (hiện ởThổ Nhĩ Kỳ).
Hayq được các nước xung quanh gọi là Armenia, có lẽ nó từng là tên của bộ lạc mạnh nhất sống ở những vùng đất thuở xưa của Armenia, những người tự gọi mình làArmens và có nguồn gốcẤn Âu. Theo truyền thống, nó bắt nguồn từ chữArmenak hayAram (chắt của chắt của Haik, và một lãnh đạo khác, người theo truyền thống Armenia là tổ tiên của tất cả người dân Armenia). Một số học giả Do Thái và Kitô giáo viết rằng cái tên 'Armenia' bắt nguồn từHar-Minni, có nghĩa là 'Núi Minni' (hayMannai). Những lý lẽ ủng hộ Kitô giáo cho rằngNairi, có nghĩavùng đất của những con sông, từng là một tên cổ gọi vùng núi của nước này, lần đầu được ngườiAssyria sử dụng khoảng năm1200 TCN; trong khi văn bản ghi chép đầu tiên được biết tới có tên Armenia, làBản khắc Behistun tạiIran, có niên đại từ năm521 TCN.
Theo câu chuyện củaHayk, người sáng lập huyền thoại của Armenia, vào khoảng năm 2107 TCN Hayk đã chiến đấu chống lạiBelus, Thần Chiến tranh của Babylon, tạiÇavuştepe dọc theo sông Engil để thành lập nhà nước Armenia đầu tiên. Về mặt lịch sử, sự kiện này trùng vớitriều đại Sumer của Gutian hủy diệtđế quốc Akkad vào năm 2115 TCN,[19] thời điểm mà Hayk có thể đã rời đi cùng với "hơn 300 thành viên trong gia đình" như được kể trong truyền thuyết, và cũng trong thời gian đó. bắt đầu khi Kỷ nguyên đen tối Lưỡng Hà xảy ra do sự sụp đổ củaĐế chế Akkadian vào năm 2154 TCN, có thể đã đóng vai trò như bối cảnh cho các sự kiện trong truyền thuyết khiến vị vua này rời bỏ Lưỡng Hà.[20]
Tôn giáo ở Armenia cổ đại về mặt lịch sử có liên quan đến một tập hợp các tín ngưỡng mà ở Ba Tư, đã dẫn đến sự xuất hiện củaHỏa giáo. Nó đặc biệt tập trung vào việc thờ cúng thầnMithra và cũng bao gồm một đền thờ các vị thần nhưAramazd,Vahagn,Anahit vàAstghik. Đất nước này sử dụnglịch Armenia theo mặt trời, bao gồm 12 tháng.
Thiên chúa giáo được truyền vào nước này rất sớm kể từ năm 40. Tiridates III của Armenia (238-314) biến Kitô giáo thànhquốc giáo năm 301,[3][33] một phần nhằm thách thức cảĐế quốc Sasan,[34] trở thành quóc gia đầu tiên chính thức là quốc gia Kitô giáo, mười năm trước khiĐế Chế La Mã chính thức khoan dung với tôn giáo này dưới thời trị vì củaGalerius và 36 năm trước khiConstantine Đại đế được rửa tội. Trước đó, trong phần thứ hai của thời đại Parthian, Armenia là một quốc gia chủ yếu theo Hỏa giáo.[34]
Sau sự sụp đổ của Vương quốc của Armenia trong năm 428, Armenia được kết hợp như mộtmarzpanate trong Đế quốc Sasania. SauTrận Avarayr năm 451, Armenia duy trì tôn giáo Kitô của mình và Armenia được tự chủ.
Vương quốc Armenia tái hợp được cai trị bởitriều đại Bagratuni và tồn tại cho đến năm 1045. Theo thời gian, một số khu vực của Bagratid Armenia tách ra thành các vương quốc và thủ phủ độc lập như Vương quốcVaspurakan do NhàArtsruni cai trị ở phía nam, Vương quốcSyunik ở phía đông, hoặcVương quốc Artsakh trên lãnh thổ củaNagorno-Karabakh hiện đại, trong khi vẫn công nhận quyền lực tối cao của các vị vua Bagratid.
Năm 1045, Đế chế Byzantine chinh phục Bagratid Armenia. Chẳng bao lâu, các quốc gia Armenia khác cũng nằm dưới sự kiểm soát của Byzantine. Sự thống trị của người Byzantine chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, vào năm 1071,Đế chế Seljuk đánh bại người Byzantine và chinh phục Armenia trongtrận Manzikert, thành lập Đế chế Seljuk.[39] Để thoát khỏi cái chết hoặc sự nô dịch dưới bàn tay của những kẻ đã ám sát họ hàng của mình,Gagik II của Armenia, Vua củaAni, một người Armenia tên làRuben I, Hoàng tử của Armenia, đã đi cùng một số đồng hương của mình vào các hẻm núi củadãy núi Taurus và sau đó đi tiếp tớiTarsus củaCilicia. Thống đốc Byzantine của cung điện đã cho họ trú ẩn, tại đóVương quốc Cilicia của Armenia cuối cùng được thành lập vào ngày 6 tháng 1 năm 1198 dưới thờiLeo I, Vua của Armenia, hậu duệ của Hoàng tử Ruben.
Cilicia là một đồng minh mạnh mẽ củaquân Thập tự chinh châu Âu, và tự coi mình như một pháo đài củaChúa Kitô ở phương Đông. Tầm quan trọng của Cilicia trong lịch sử và địa vị nhà nước của Armenia cũng được chứng thực bằng việc chuyển giao trụ sở của Giáo hội Công giáo Armenia, nhà lãnh đạo tinh thần của người Armenia, đến khu vực này.
Đế chế Seljuk sớm bắt đầu sụp đổ. Vào đầu thế kỷ 12, các hoàng tử Armenia của gia tộc Zakarid đã đánh đuổi người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk và thành lập một công quốc bán độc lập ở miền bắc và miền đông Armenia được gọi làZakarid Armenia, tồn tại dưới sự bảo trợ củaVương quốc Gruzia.Vương triều Orbelian chia sẻ quyền kiểm soát với người Zakarids ở nhiều vùng khác nhau của đất nước này, đặc biệt là ở Syunik vàVayots Dzor, trong khiNhà Hasan-Jalalyan kiểm soát các tỉnhArtsakh vàUtik với tên là Vương quốc Artsakh.
Trong những năm 1230,Đế chế Mông Cổ chinh phục Zakarid Armenia và sau đó là phần còn lại của Armenia. Các cuộc xâm lược của Mông Cổ ngay sau đó là của các bộ lạcTrung Á khác, chẳng hạn nhưKara Koyunlu,triều đại Timurid vàAğ Qoyunlu, tiếp tục kéo dài từ thế kỷ 13 cho đến thế kỷ 15. Sau những cuộc xâm lược không ngừng, từng mang lại sự tàn phá cho đất nước này, cùng với thời gian, Armenia trở nên suy yếu.
Trong khi Tây Armenia vẫn nằm dưới sự cai trị của Ottoman, người Armenia đã được trao quyền tự trị đáng kể trongvùng lãnh thổ của họ và sống tương đối hòa thuận với các nhóm người khác trong đế chế (bao gồm cả người Thổ Nhĩ Kỳ cầm quyền). Tuy nhiên, do là những người theo đạo Thiên chúa dưới mộtcấu trúc xã hội Hồi giáo chặt chẽ, người Armenia phải đối mặt với sự phân biệt đối xử tràn lan. Khi họ bắt đầu thúc đẩy nhiều quyền hơn trong Đế chế Ottoman, để đáp lại, SultanAbdul Hamid II đã tổ chức các cuộc thảm sát do nhà nước bảo trợ chống lại người Armenia từ năm 1894 đến năm 1896, dẫn đến số người chết ước tính từ 80.000 đến 300.000 người. Cácvụ thảm sát Hamidian đã khiến cho Hamid nổi tiếng quốc tế với cái tên "Sultan Đỏ" hay "Sultan đẫm máu".[46]
Trong những năm 1890,Liên đoàn Cách mạng Armenia, thường được gọi làDashnaktsutyun, đã hoạt động trongĐế chế Ottoman với mục đích thống nhất các nhóm nhỏ khác nhau trong đế chế đang vận động cải cách và bảo vệ các làng Armenia khỏi các cuộc tàn sát lan rộng ở một số Các khu vực đông dân cư của Armenia của đế chế. Các thành viên Dashnaktsutyun cũng thành lậpcác nhóm fedayi Armenia bảo vệ thường dân Armenia thông qua các cuộc kháng chiến vũ trang. Dashnaks cũng hoạt động vì mục tiêu rộng lớn hơn là tạo ra một Armenia "tự do, độc lập và thống nhất", mặc dù đôi khi họ dành mục tiêu này để ủng hộ cách tiếp cận thực tế hơn, chẳng hạn như ủng hộ quyền tự chủ.
Cuộc diệt chủng được thực hiện theo hai giai đoạn: giết hại hàng loạt những người đàn ông có sức khỏe thông qua thảm sát và tống khứ lính nghĩa vụ để chuyển sang lao động cưỡng bức, sau đó là trục xuất phụ nữ, trẻ em, người già và những người ốm yếu trong cáccuộc diễu hành tử thần dẫn đếnsa mạc Syria. Bị những người hộ tống quân sự cưỡng ép, những người bị trục xuất đã thường xuyên thiếu thức ăn và nước uống và bị cướp, hãm hiếp và thảm sát định kỳ.[48][49]Có sự phản kháng mang tính cục bộ địa phương của người Armenia trong khu vực này, được phát triển để chống lại các hoạt động diệt chủng của Đế chế Ottoman. Các sự kiện từ năm 1915 đến năm 1917 được người Armenia và đại đa số các nhà sử học phương Tây coi là những vụ giết người hàng loạt do nhà nước bảo trợ hay còn gọi là tội diệt chủng.[50]
Các nhà chức trách Thổ Nhĩ Kỳ phủ nhận tội ác diệt chủng này cho đến ngày nay. Cuộc diệt chủng Armenia được thừa nhận là một trong những cuộcdiệt chủng hiện đại đầu tiên.[51][52] Theo nghiên cứu doArnold J. Toynbee thực hiện, ước tính có khoảng 600.000 người Armenia đã chết trong quá trình trục xuất từ năm 1915 đến năm 1916. Tuy nhiên, con số này chỉ tính đến năm đầu tiên của Cuộc diệt chủng và không tính đến những người đã chết hoặc bị giết sau khi báo cáo được tổng hợp vào ngày 24 tháng 5 năm 1916.[53]Hiệp hội các học giả diệt chủng quốc tế đưa ra con số thiệt mạng là "hơn một triệu".[54] Tổng số người thiệt mạng được ước tính rộng rãi nhất là từ 1 đến 1,5 triệu.[55]
Armenia và cộng đồng người Armenia đã vận động để các sự kiện này đượcchính thức công nhận là tội diệt chủng trong hơn 30 năm. Những sự kiện này theo truyền thống được kỷ niệm hàng năm vào ngày 24 tháng 4, Ngày liệt sĩ Armenia, hoặc Ngày của nạn diệt chủng Armenia.[cần dẫn nguồn]
Nền độc lập ngắn ngủi của nền Đệ nhất Cộng hòa này được ghi nhận với đầy rẫy chiến tranh,tranh chấp lãnh thổ và một dòng người tị nạn ồ ạt từ Ottoman Armenia, mang theo bệnh tật và đói khát.Khối Đồng minh đã tìm cách giúp đỡ nhà nước Armenia mới thành lập thông qua các quỹ cứu trợ và các hình thức hỗ trợ khác.
Vào cuối cuộc chiến, các cường quốc chiến thắng tìm cách chia rẽ Đế chế Ottoman. Được ký kết giữaĐồng minh và các cường quốc liên kết vàĐế chế Ottoman tạiSèvres vào ngày 10 tháng 8 năm 1920,Hiệp ước Sèvres hứa sẽ duy trì sự tồn tại của nước cộng hòa Armenia và gắn các lãnh thổ cũ của Armenia dưới thời Ottoman với nó. Vì các đường biên giới mới của Armenia do Tổng thống Hoa KỳWoodrow Wilson vẽ nên Ottoman Armenia còn được gọi là "Wilsonian Armenia ". Ngoài ra, chỉ vài ngày trước đó, vào ngày 5 tháng 8 năm 1920,Mihran Damadian của Liên minh Quốc gia Armenia, chính quyền Armenia trên thực tế ở Cilicia, tuyên bốCilicia độc lập với tư cách một nước cộng hòa tự trị Armenia dưới sự bảo hộ của Pháp.[56]
Thậm chí còn có sự cân nhắc về việc biến Armenia trở thành một khu ủy trị dưới sự bảo hộ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, hiệp ước đã bịPhong trào Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ bác bỏ và không bao giờ có hiệu lực. Phong trào đã sử dụng hiệp ước này như một dịp để tuyên bố mình làchính phủ hợp pháp của Thổ Nhĩ Kỳ, thay thế chế độ quân chủ có trụ sở tạiIstanbul bằng chế độ cộng hòa có trụ sở tạiAnkara.
Năm 1920, các lực lượng dân tộc chủ nghĩa Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược nước cộng hòa Armenia non trẻ từ phía đông. Các lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự chỉ huy củaKazım Karabekir đã đánh chiếm các vùng lãnh thổ của Armenia mà Nga đã sáp nhập sauChiến tranh Nga-Thổ 1877–1878 và chiếm đóng thành phố cổ Alexandropol (Gyumri ngày nay). Xung đột bạo lực cuối cùng đã kết thúc vớiHiệp ước Alexandropol vào ngày 2 tháng 12 năm 1920. Hiệp ước buộc Armenia giải giáp hầu hết cáclực lượng quân sự của mình, nhượng lại tất cả lãnh thổ cũ của Ottoman đượcHiệp ước Sèvres cấp cho, và từ bỏ tất cả "Wilsonian Armenia" được cấp cho nó trong hiệp ước Sèvres. Đồng thời,Tập đoàn quân số 11 của Liên Xô, dưới sự chỉ huy củaGrigoriy Ordzhonikidze, xâm lược Armenia tại Karavansarai (Ijevan ngày nay) vào ngày 29 tháng 11. Đến ngày 4 tháng 12, lực lượng của Ordzhonikidze tiến vào Yerevan và nước cộng hòa Armenia sụp đổ, chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
Sau khi nước cộng hòa cũ sụp đổ,Cuộc nổi dậy tháng Hai nhanh chóng diễn ra vào năm 1921, và dẫn đến việc thành lậpCộng hòa Miền núi Armenia bởi các lực lượng Armenia dưới sự chỉ huy củaGaregin Nzhdeh vào ngày 26 tháng 4, chống lại sự xâm nhập của cả Liên Xô và Thổ Nhĩ Kỳ tại Zangezur khu vực phía nam Armenia. Sau các thỏa thuận của Liên Xô về việc đưatỉnh Syunik vào bên trong biên giới của Armenia, cuộc nổi dậy kết thúc và Hồng quân giành quyền kiểm soát khu vực này vào ngày 13 tháng 7.
TSFSR tồn tại từ năm 1922 đến năm 1936, khi nó được chia thành ba thực thể riêng biệt (Cộng hòa XHCN Xô viết Armenia,Cộng hòa XHCN Xô viết Azerbaijan vàCộng hòa XHCN Xô viết Gruzia). Người Armenia đã có được một giai đoạn khá ổn định dưới thời Xô viết. Họ nhận được thực phẩm, thuốc men và các nhu yếu phẩm khác từ Moskva, và thời gian cầm quyền của những người cộng sản đã trở thành thời kỳ yên ổn, dễ chịu trái ngược hoàn toàn với tình trạng hỗn loạn những năm cuối thời kỳ Đế chế Ottoman. Tình hình chỉ không dễ chịu với nhà thờ, vốnphản đối quyền cai trị Xô viết. Sau cái chết củaVladimir Lenin và các sự kiện xảy ra trongNội chiến Nga,Joseph Stalin trở thành tổng bí thư củaCPSU, vị trí quyền lực nhất của Liên Xô thời đó.[59]
Armenia không phải là bối cảnh của bất kỳ trận chiến nào trongThế chiến thứ hai. Ước tính có khoảng 500.000 người Armenia (gần một phần ba dân số) đã phục vụ trongHồng quân trong chiến tranh, và 175.000 người đã chết.[60]
Người ta cho rằng chỉ số tự do trong khu vực đã được cải thiện saucái chết của Joseph Stalin vào năm 1953 và sự xuất hiện củaNikita Khrushchev với tư cách là tổng thư ký mới củaCPSU. Chẳng bao lâu, cuộc sống trong SSR của Armenia bắt đầu được cải thiện nhanh chóng. Nhà thờ, vốn bị hạn chế dưới thời Stalin, đã được hồi sinh khiCatholicosVazgen I đảm nhận nhiệm vụ văn phòng của ông vào năm 1955. Năm 1967, một đài tưởng niệm các nạn nhân của cuộc diệt chủng Armenia được xây dựng tạiđồi Tsitsernakaberd phía trênhẻm núiHrazdan ởYerevan. Điều này xảy ra sau khicác cuộc biểu tình quần chúng diễn ra vào dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện bi thảm vào năm 1965.
Trongthời kỳ Gorbachev những năm 1980, với những cải cách củaGlasnost vàPerestroika, người Armenia bắt đầu yêu cầu chăm sóc môi trường tốt hơn cho đất nước của họ, phản đối tình trạng ô nhiễm mà các nhà máy do Liên Xô xây dựng mang lại. Căng thẳng cũng phát triển giữa Azerbaijan thuộc Liên Xô và quận tự trịNagorno-Karabakh của nó, một khu vực có đa số người Armenia. Khoảng 484.000người Armenia sống ở Azerbaijan vào năm 1970.[61] Người Armenia ở Karabakh yêu cầu thống nhất với Armenia của Liên Xô. Cuộc biểu tình ôn hòa ở Armenia hỗ trợ Karabakh người Armenia đã được đáp ứng với chống Armeniacuộc tàn sát ở Azerbaijan, chẳng hạn như một trongSumgait, được theo sau bởibạo lực chống Azerbaijan tại Armenia.[62] Tạo thêm khó khăn cho Armenia là mộttrận động đất kinh hoàng năm 1988 vớicường độ là 7,2 độ richter.[63]
Việc Gorbachev không có khả năng làm giảm bớt bất kỳ vấn đề nào của Armenia đã tạo ra sự thất vọng cho người Armenia và khiến người Armenia ngày càng khao khát độc lập. Vào tháng 5 năm 1990,Quân đội Armenia mới (NAA) được thành lập, hoạt động như một lực lượng phòng vệ tách biệt vớiHồng quân Liên Xô. Các cuộc đụng độ nhanh chóng nổ ra giữa quân đội NAA vàLực lượng An ninh Nội bộ Liên Xô (MVD) đóng tại Yerevan khi người Armenia quyết định kỷ niệm ngày thành lập Cộng hòa Armenia năm 1918. Bạo lực dẫn đến cái chết của 5 người Armenia thiệt mạng trong một cuộc đấu súng với MVD tại nhà ga đường sắt. Các nhân chứng ở đó cho rằng MVD đã sử dụng vũ lực quá mức và họ đã kích động đánh nhau.
Các cuộc đọ súng tiếp theo giữa dân quân Armenia và quân đội Liên Xô đã xảy ra ởSovetashen, gần thủ đô và dẫn đến cái chết của hơn 26 người, chủ yếu là người Armenia. Cuộctàn sát của người Armenia ở Baku vào tháng 1 năm 1990 đã buộc gần như toàn bộ 200.000 người Armenia ở thủ đôBaku của Azerbaijan phải chạy sang Armenia.[64] Ngày 23 tháng 8 năm 1990, Armenia tuyên bố chủ quyền trên lãnh thổ của mình. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1991, Armenia, cùng với cácquốc gia Baltic, Gruzia vàMoldova, đã tẩy chay mộtcuộc trưng cầu dân ý trên toàn quốc, trong đó 78% tổng số cử tri đã bỏ phiếu cho việc duy trì Liên bang Xô viết dưới hình thức cải tổ.[65]
Ter-Petrosyan đã lãnh đạo Armenia cùng với Bộ trưởng Quốc phòngVazgen Sargsyan thông quaChiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ nhất với nước láng giềng Azerbaijan. Những năm đầu thời kỳ hậu Xô Viết bị tàn phá bởi những khó khăn kinh tế, vốn bắt nguồn từ cuộc xung đột Karabakh khiMặt trận Bình dân Azerbaijan tìm cách gây áp lực với Azerbaijan SSR để kích độngphong tỏa đường sắt và đường hàng không chống lại Armenia. Động thái này đã làm tê liệt nền kinh tế Armenia một cách hiệu quả khi 85% lượng hàng hóa và hàng hóa của nước này đến qua giao thông đường sắt.[66] Năm 1993, Thổ Nhĩ Kỳ tham gia cuộc phong tỏa chống lại Armenia để ủng hộ Azerbaijan.[67]
Cuộc diễu hành ngày 21 tháng 9 năm 2011 tại Yerevan, đánh dấu 20 năm Armenia tái độc lập.
Chiến tranh Karabakh kết thúc sau khi mộtlệnh ngừng bắn do Nga làm trung gian được đưa ra vào năm 1994. Cuộc chiến là một thành công đối với lực lượng Karabakh Armenia, những người đã chiếm được 16% lãnh thổ được quốc tế công nhận của Azerbaijan, bao gồm cả chính Nagorno-Karabakh.[68] Các lực lượng được Armenia hậu thuẫn vẫn nắm quyền kiểm soát trên thực tế toàn bộ lãnh thổ đó cho đến năm 2020. Nền kinh tế của cả Armenia và Azerbaijan đều bị tổn thương khi không có giải pháp hoàn chỉnh và biên giới của Armenia với Thổ Nhĩ Kỳ và Azerbaijan vẫn bị đóng cửa. Vào thời điểm cả Azerbaijan và Armenia cuối cùng đã đồng ý ngừng bắn vào năm 1994, ước tính 30.000 người đã thiệt mạng và hơn một triệu người phải di tản.[69] Vài nghìn người đã thiệt mạng trong cuộc chiến Karabakh năm 2020.
Trong thế kỷ 21, Armenia phải đối mặt với nhiều khó khăn. Quốc gia này đã chuyển hẳn sangnền kinh tế thị trường. Một nghiên cứu xếp nó là quốc gia "tự do về kinh tế" thứ 41 trên thế giới, Tính đến năm 2014[cập nhật] .[70] Mối quan hệ của nó với châu Âu,Liên đoàn Ả Rập vàCộng đồng các quốc gia độc lập đã cho phép Armenia tăng cường thương mại.[71][72] Khí đốt, dầu mỏ và các nguồn cung cấp khác đi qua hai tuyến đường quan trọng: Iran và Gruzia. Tính đến năm 2016[cập nhật], Armenia duy trì quan hệ thân thiện với cả hai nước này.[73][cần cập nhật]
Vào tháng 3 năm 2018, quốc hội Armenia đã bầuArmen Sarksyan làm Tổng thống mới của Armenia. Cuộc cải cách hiến pháp gây tranh cãi nhằm giảm bớt quyền lực của tổng thống được thực hiện, trong khi quyền lực của thủ tướng được tăng cường.[75] Vào tháng 5 năm 2018, quốc hội đã bầu thủ lĩnh đối lậpNikol Pashinyan làm thủ tướng mới. Người tiền nhiệm Serzh Sargsyan của ông đã từ chức hai tuần trước đó sau các cuộc biểu tình chống chính phủ lan rộng.[76]
Armenia thi hành chính sách cân bằng quan hệ vớiNga vàphương Tây. Ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại của Armenia là hợp tác khu vực và giải quyết xung đột tạiNagorno-Karabakh vớiAzerbaijan.
VớiNga vàSNG:Nga và Armenia đã ký Hiệp định quân sự, cho phép Nga tiếp tục sử dụng các căn cứ quân sự từ thờiLiên Xô. Tích cực tham gia các hoạt động của khối SNG. Armenia hiện là quan sát viên (từ tháng 4 năm 2003) của cộng đồng kinh tế Âu-Á (EuvAzEC), thành viên của Hiệp ước an ninh tập thể (ODKB) gồm 6 nướcNga,Belarus, Armenia,Tajikistan,Kyrgyzstan,Uzbekistan.
Với các nước khác: Armenia chú trọng hợp tác với các nước đang phát triển.Trung Quốc,Ấn Độ vàNhật Bản là những đối tác lớn. Ngoài ra,Thái Lan,Indonesia,Malaysia gần đây đang tăng cường quan hệ với Armenia; có quan hệ tốt vớiIran vàGruzia nhằm mục đích giải quyết khó khăn về kinh tế và giao thông. Vừa qua, Armenia vàThổ Nhĩ Kỳ đã ký Biên bản bình thường hóa quan hệ.
Armenia được chia thành mười tỉnh (marzer, số ít:marz), với thành phố (kaghak)Yerevan (Երևան) có địa vị hành chính đặc biệt, là thủ đô của đất nước. Người đứng đầu tỉnh làmarzpet (thống đốc), được chỉ định bởi chính phủ Armenia. Tại Yerevan, người đứng đầu là thị trưởng, do tổng thống bổ nhiệm.
Trong mỗi tỉnh là các cộng đồng (hamaynkner, số ít:hamaynk). Mỗi cộng đồng tự quản bao gồm một hoặc nhiều khu định cư (bnakavayrer, số ít:bnakavayr). Các khu định cư này có thể chỉ có mình nó (không phân chia tiếp) hoặc chia thành các cộng đồng dân cư là thị trấn (kaghakner, số ít:kaghak) hoặc các làng (gyugher, số ít:gyugh). Tính đến năm 2007, Armenia có 915 cộng đồng, trong đó có 49 cộng đồng được coi là đô thị và 866 được coi là nông thôn. Thủ đô Yerevan cũng có tư cách của một cộng đồng.[80] Ngoài ra, Yerevan được chia thành 12 quận bán tự trị.
Bản đồ mô phỏng địa hình Armenia (trái) và ảnh chụp vệ tinh Armenia và tháng 5 năm 2003 (phải)
Armenia là mộtquốc gia nội lục tạiNam Kavkaz. Nằm giữaBiển Đen vàBiển Caspia, Armenia giáp vớiGruzia về phía bắc,Azerbaijan về phía đông,Iran về phía nam, vàThổ Nhĩ Kỳ về phía tây và tây nam. Dù về địa lý nằm ở Tây Á, về chính trị và văn hóa Armenia gần gũi với châu Âu. Về lịch sử, Armenia từng là ngã tư đường giữa châu Âu và tây nam Á, và vì thế được coi là một quốc gia liên lục địa.
Cộng hoà Armenia, bao phủ diện tích 30 000km² (11.600 dặm vuông), nằm ở đông bắccao nguyên Armenia (bao phủ diện tích 400 000 km² hay 154.000 dặm vuông).
Đất đai chủ yếu lànúi non, với những dòngsông chảy nhanh và một ítrừng. Khí hậu cao nguyênlục địa: mùa hè nóng và mùa đông lạnh. Điển cao nhất đất nước là đỉnhnúi Aragats, cao 4095mét (13.435 ft) trênmực nước biển, và không có điểm nào thấp dưới 390 mét (1.280 ft) trên mực nước biển.[81]Núi Ararat, được người Armenia coi là mộtbiểu tượng của quốc gia họ, là núi cao nhất trong vùng và từng là một phần của Armenia cho tới tận khoảng năm1915, khi nó rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ.
Armenia đang tìm cách giải quyết các vấn đềmôi trường của họ. Nước này đã thành lập Bộ Bảo vệ Tự nhiên và đưa ra các sắc thuế về ô nhiễm không khí và nước và chất thải rắn, nguồn thu từ những loại thuế này sẽ được sử dụng cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Armenia rất chú trọng hợp tác với các thành viên khác trongCộng đồng các quốc gia độc lập (CIS, một nhóm 11 nước cộng hoàXô viết trước kia) và với các thành viên cộng đồng thế giới về các vấn đề môi trường. Chính phủ Armenia đang đặt kế hoạch đóng cửa Nhà máy Điện Hạt nhân Medzamor gầnYerevan ngay khi tìm được nguồn năng lượng thay thế thích hợp.
Yerevan - trung tâm tài chính và văn hóa của Armenia.Tu viện Tatev, một trong những điểm du lịch nổi tiếng của Armenia.
Cho tới khi độc lập, kinh tế Armenia chủ yếu dựa trêncông nghiệp với các sản phẩmhóa chất,điện tử, máy móc,thực phẩm chế biến,cao su nhân tạo, vàdệt may và dựa nhiều vào các nguồn tài nguyên từ bên ngoài.Nông nghiệp chiếm khoảng 20% sản phẩm thực và 10% nhân công trước khi Liên bang Xô viết tan rã năm 1991. Các sản phẩm mỏ Armenia làđồng,kẽm,vàng, vàchì. Đại đa số năng lượng có từ nguồnnhiên liệu nhập khẩu từ Nga, gồmkhí đốt và nhiên liệu hạt nhân (với mộtnhà máy điện hạt nhân); nguồn năng lượng chủ yếu trong nước làthủy điện. Một lượng nhỏthan, khí đốt, vàdầu mỏ vẫn chưa được khai thác.
Tương tự như các quốc gia mới độc lập từ Liên bang Xô viết cũ khác, kinh tế Armenia phải đương đầu với di sản của một nềnkinh tế kế hoạch hóa tập trung và sự tan vỡ của thị trường thương mại Xô viết truyền thống. Đầu tư và hỗ trợ của Xô viết vào ngành công nghiệp Armenia bị mất, vì thế chỉ một ít doanh nghiệp lớn chủ chốt còn hoạt động. Ngoài ra, những hậu quả của trậnđộng đất Spitak năm 1988, giết hại hơn 25.000 người và khiến 500.000 người mất nhà cửa vẫn còn đó. Cuộc xung đột với Azerbaijan về vùng Nagorno-Karabakh đi đến hồi kết vào năm 2023. Sự đóng cửa biên giới với Azerbaijan và Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến nền kinh tế bị suy sụp, bởi Armenia phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu thô và năng lượng từ bên ngoài. Những con đường bộ qua Gruzia và Iran không đầy đủ và không đáng tin cậy.Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm gần 60% từ năm 1989 tới năm1992–1993. Đồng tiền tệ quốc gia, đồng dram, bị siêu lạm phát trong những năm đầu tiên sau khi được đưa vào lưu hành năm 1993.
Tuy thế, chính phủ vẫn đưa ra được những cuộc cải cách kinh tế ở quy mô lớn, làm giảm đáng kể nạn lạm phát và ổn định tăng trưởng. Cuộc ngừng bắn năm 1994 cho cuộc xung đột Nagorno-Karabakh cũng giúp nền kinh tế. Armenia đã đạt tăng trưởng kinh tế mạnh từ năm1995, một bước ngoặt so với giai đoạn trước đó, và lạm phát đã ở mức chấp nhận được trong những năm tiếp theo. Những lĩnh vực mới, như gia côngđá quý và chế tạo đồkim hoàn,công nghệ thông tin vàcông nghệ viễn thông, và thậm chí cảdu lịch đang bắt đầu có đóng góp vào nền kinh tế bên cạnh các lĩnh vực truyền thống như nông nghiệp.
Sự tăng trưởng kinh tế ổn định đã giúp Armenia nhận được thêm sự giúp đỡ từ các định chế quốc tế.Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),Ngân hàng Thế giới,Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD), cùng nhiều định chế tài chính quốc tế khác (IFIs) và nước ngoài đã kéo dài thời hạn trả nợ cũng như cung cấp cho nước này nhiều khoản vay lớn. Từ năm 1993 những khoản cho vay từ Hoa Kỳ đã vượt $1.1 tỷ. Những khoản cho vay đó chủ yếu nhắm mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách, ổn định tiền tệ; phát triển doanh nghiệp tư nhân; lĩnh vực năng lượng; nông nghiệp, chế biến thực phẩm, vận tải và sức khỏe cùng giáo dục; và việc tái thiết đang diễn ra tại các vùng đã phải chịu ảnh hưởng trận động đất. Chính phủ đã gia nhậpTổ chức Thương mại Thế giới ngày5 tháng 2 năm2003. Nhưng một trong những nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài chính chính là cộng đồng Do Thái Armenia, với những khoản tiền lớn cho việc tái thiết cơ sở hạ tầng và các dự án công cộng. Là một quốc gia dân chủ đang phát triển, Armenia cũng hy vọng có được thêm viện trợ tài chính từ phương Tây.
Một luật tự do đầu tư nước ngoài đã được thông qua tháng 6 năm 1994, và Luật về Tư nhân hóa được thông qua năm 1997, cũng như một chương trình tư nhân hóa các tài sản nhà nước. Tương lai phát triển sẽ phụ thuộc vào khả năng của chính phủ trong việc tăng cường quản lý kinh tế vi mộ, gồm cả tăng nguồn thu, cải thiện môi trường đầu tư, và chiến đấu chống tham nhũng.
Năm 2025, dân số của Armenia là 3.081.100 người,[84] là quốc gia thuộc Liên Xô cũ đông dân thứ ba.[85] Dân số của Armenia bắt đầu suy giảm sau khiLiên Xô tan rã vì nhiều người quyết định di cư ra nước ngoài.[86]
Ước tính 8 triệu người Armenia sinh sống ở nước ngoài, tập trung chủ yếu ở Nga, Pháp, Iran, Hoa Kỳ, Gruzia, Syria, Liban, Úc, Canada, Hy Lạp, Síp, Israel, Ba Lan, Ukraina và Brasil. Từ 40.000 đến 70.000 người Armenia tiếp tục sinh sống ở Thổ Nhĩ Kỳ, chủ yếu tạiIstanbul.[87]
Hầu như tất cả người Armenia tạiAzerbaijan (gần 120.000 người) hiện sống tại vùngNagorno-Karabakh. Armenia đã từng cócộng đồng Do Thái rất lớn (theo một số ước tính lên tới 8 triệu người, vượt xa con số 3 triệu người của toàn bộ dân số nước này hiện nay), với nhiều cộng đồng hiện diện trên khắp thế giới, từPháp,Nga,Iran,Liban, tớiBắc Mỹ.
Tôn giáo chủ yếu tại Armenia làKitô giáo. Các gốc rễ của Giáo hội Armenia có từthế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Theo truyền thống, Giáo hội Armenia được hai trong số mười haitông đồ của Chúa Giêsu làThaddaeus vàBartholomew thành lập. Họ đã thuyết giảng tại Armenia trong những năm 40 tới 60 Công Nguyên. Nhờ được hai vị tông đồ sáng lập, tên chính thức của Giáo hội Armenia làGiáo hội Tông truyền Armenia. Armenia là nước đầu tiên coi Kitô giáo là quốc giáo vào năm301 sau Công Nguyên, một năm sau đó giáo hội cóThượng phụ đầu tiên là thánhGrigor Lusavorich. Hơn 93% người Kitô giáo Armenia theo Giáo hội Tông truyền Armenia, một giáo hội Chính thống Cổ Phương đông (phủ nhận Công đồng Chalcedon), đây là một phái thủ cựu, nghi thức, có thể so sánh vớiGiáo hội Chính thống Coptic ở Ai Cập vàGiáo hội Chính thống Syria. Armenia cũng có một số dân theoCông giáo Rôma gồm cả nghi lễ Latin và nghi lễ Đông phương (Armenia), những tín hữu Công giáo nghi lễ Đông phương đó thuộc vềGiáo hội Công giáo Armenia có trụ sở đặt tạiBzoummar,Liban. Ngoài ra còn cóGiáo hội Tin Lành Armenia,Giáo hội huynh đệ Armenia và nhiều nhóm Kháng Cách khác.
NgườiKurdYazidi sống ở vùng phía tây đất nước theo đạoYazidi (Yazdânism). Cũng có mộtcộng đồng Do Thái ở Armenia giảm xuống chỉ còn khoảng 750 người sau khi độc lập với hầu hết dân di cư tớiIsrael. Hiện ở Armenia còn hai hội đường Do Thái - một ở thủ đô Yerevan và một ở thành phốSevan bênhồ Sevan.
Lòng mến khách của người Armenia đã trở thành truyền thuyết và bắt nguồn từ truyền thống cổ. Những cuộc tụ họp xã hội đều diễn ra quanh những bàn ăn với nhiều món thực phẩm theo mùa xa hoa, chuẩn bị công phu, lần lượt được phục vụ (nhưng không cay). Các vị chủ nhà thường đặt thức ăn trên chiếc đĩa của khách bất kỳ khi nào nó rỗng hay rót đầy cốc khi chúng sắp cạn. Sau một hay hai phần mời mọc, hành động từ chối một cách lịch thiệp hay, đơn giản hơn, chỉ cần để lại một miếng nhỏ thức ăn, là có thể chấp nhận được. Các loại rượu nhưcognac,vodka, và rượu vang đỏ thường được dùng tại các bữa tiệc và những dịp hội họp. Hiếm khi hay không bao giờ một người khách vào trong một ngôi nhà người Armenia mà không được mời cà phê, bánh nướng, thức ăn, hay thậm chí là nước.
Những lễ cưới thường khá cầu kỳ và vương giả. Quá trình cưới hỏi bắt đầu khi người nam và nữ "hứa hôn". Người lớn tuổi phía người nam (Bố mẹ, ông bà, và thường cả Cô và Bác) sang nhà người nữ để xin phép cha cô cho mối quan hệ được tiếp tục và hy vọng một tương lai tươi sáng. Khi cha cô gái đã cho phép, người nam trao cho nữ một "nhẫn hứa hôn" để chính thức hóa công việc. Để kỷ niệm sự đồng thuận của hai gia đình, gia đình người nữ mở một chai cognac Armenia. Sau khi đã hứa hôn, đa số các gia đình đều tổ chức một buổi tiệc hứa hôn khá lớn. Gia đình nhà gái là bên sắp đặt kế hoạch, tổ chức và chi trả chi phí. Gia đình nam rất ít tham dự vào việc này. Trong buổi tiệc, một linh mục được mời tới để cầu nguyện và chúc phúc cho họ. Khi những lời cầu nguyện kết thúc, hai người quấn những dải băng hôn lễ lên tay phải của nhau (nhẫn bị tháo khỏi tay phải khi buổi lễ kết hôn chính thức được nhà thờ Armenia tổ chức). Khoảng thời gian chờ đợi lễ cưới chính thức theo thông lệ là một năm. Không giống như trong các nền văn hóa khác, người nam và gia đình mình không phải trả chi phí buổi lễ. Quá trình sắp đặt kế hoạch và tổ chức thường do nhà gái đảm nhiệm, chú rể chỉ cần tới hiện diện.
Phòng tranh Nghệ thuật Quốc gia tại Yerevan có hơn 16.000 tác phẩm bắt đầu từThời Trung Cổ. Nơi đây cũng lưu giữ nhiều tác phẩm của các bậc thầyChâu Âu. Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, Phòng tranh Trẻ em, và Bảo tàngMartiros Saryan chỉ là một trong những nơi sở hữu nhiều bộ sưu tập nghệ thuật có giá trị đang trưng bày tại Yerevan. Hơn nữa, nhiều phòng tranh tư nhân cũng đang hoạt động, nhiều phòng khác được khai trương hàng năm. Nơi đây thường tổ chức các cuộc triển lãm và bán tranh.
Dàn nhạc Giao hưởng Armenia ở mức trình độ quốc tế thường biểu diễn tại Nhà hát thành phố đã được sửa chữa rất đẹp. Ngoài ra, nhiều nhóm trình diễn khác cũng được đánh giá rất cao về trình độ nhạc sĩ, nhưNhà hát Giao hưởng Quốc gia Armenia vàdàn nhạc Giao hưởng Serenade. Âmnhạc cổ điển được biểu diễn tại nhiều thính phòng nhỏ hơn, gồm Trường nhạc Quốc gia và Phòng giao hưởng. Nhạcjazz khá phổ thông, đặc biệt vào mùa hè khi các buổi trình diễn trực tiếp thường được tổ chức tại nhiều quáncafé ngoài trời trong thành phố.
Vernisage tại Yerevan (thị trường nghệ thuật và thủ công), gần Quảng trường Cộng hoà, luôn rộn rã với hàng trăm người bán các mặt hàng thủ công, nhiều tác phẩm thực sự khéo léo, vào những ngày cuối tuần và thứ tư. Nơi đây có bán đồ khắc gỗ, đồ cổ, đăng ten, và những tấm thảm dệt tay cùng kilim là một đặc sản vùng Kavkaz. Đá Obsidian, có tại địa phương, được khảm vào nhiều đồ trang trí và trang sức. Nghề kim hoàn Armenia có một truyền thống lâu dài và riêng biệt, một khu vực riêng trong chợ được dành cho những bộ sưu tập đồ vàng. Những kỷ vật thời Xô viết và đồ lưu niệm sản xuất gần đây tại Nga như con materiosca (búp bê gỗ) đồng hồ, hộp men và nhiều thứ khác, cũng hiện diện tại Vernisage.
Phía bên kia Nhà hát thành phố là một khu chợ nghệ thuật đông người khác, họp vào dịp cuối tuần. Lịch sử lâu dài của Armenia trên ngã tư đường của các đế chế cổ đại khiến nơi đây trở thành địa điểm tuyệt vời để khám phá những đồ khảo cổ. Các di chỉ khảo cổThời Trung Cổ,Thời đồ sắt,Thời đồ đồng và thậm chíThời đồ đá chỉ cách thành phố vài giờ đi xe. Đa số chúng vẫn ở tình trạng chưa được khám phá, mang lại cho du khách cơ hội tham quan những nhờ thờ, những pháo đài hãy còn ở tình trạng nguyên bản.
Đại học Mỹ tại Armenia cung cấp nhiều khóa về Kinh doanh và Luật. Đại học này được thành lập nhờ những nỗ lực của cả Chính phủ Mỹ,Liên minh Từ thiện Armenia, USAID, và Khoa Luật Boalt tạiĐại học California, Berkeley.
Các chương trình mở rộng và tủ sách tại AUA trở thành một địa chỉ mới cho giới trí thức thành phố. Nhiều doanh nhân trẻ thành đạt tại Armenia từng tốt nghiệp từ trường này.
^abcd"Armenia",The World Factbook (bằng tiếng Anh), Central Intelligence Agency, ngày 25 tháng 3 năm 2025, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2025Lỗi chú thích: Thẻ<ref> không hợp lệ: tên “CIA” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
^Smaller nations that have claimed a prior official adoption of Christianity includeOsroene, theSilures, andSan Marino.
^Grousset, René (1947).Histoire de l'Arménie (ấn bản thứ 1984). Payot. tr. 122.
^"Human Development Report"(PDF). United Nations Development Programme (UNDP). 2019.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2020.
^John A. C. Greppin and I. M. Diakonoff,Some Effects of the Hurro-Urartian People and Their Languages upon the Earliest Armenians Journal of the American Oriental Society Vol. 111, No. 4 (Oct.
^Joan Aruz, Kim Benzel, Jean M. Evans,Beyond Babylon: Art, Trade, and Diplomacy in the Second Millennium B.C. Metropolitan Museum of Art (New York, N.Y.) (2008) pp. 92
^Charles W. Hartley; G. Bike Yazicioğlu; Adam T. Smith, biên tập (2012).The Archaeology of Power and Politics in Eurasia: Regimes and Revolutions. Cambridge University Press. tr. 65.ISBN978-1-107-01652-1....the unique temple-tomb at Garni, just east of Yerevan – the only Greco-Roman colonnaded building anywhere in the Soviet Union.
^Stokes, Jamie, biên tập (2008).Encyclopedia of the Peoples of Africa and the Middle East. New York:Infobase Publishing. tr. 65.ISBN978-1-4381-2676-0.Etchmiatzin is located in the west of modern Armenia, close to the border with Turkey, and its fourth-century cathedral is generally regarded as the oldest in the world.
^Bauer-Manndorff, Elisabeth (1981).Armenia: Past and Present. Lucerne: Reich Verlag.OCLC8063377.Etchmiadzin, with the world's oldest cathedral and the seat of the Catholicos, draws tourists from all over the world.
^Utudjian, Édouard (1968).Armenian Architecture: 4th to 17th Century. Paris: Editions A. Morancé. tr. 7.OCLC464421....the oldest cathedral in Christendom, that of Etchmiadzin, founded in the 4th century.
^Holt, Peter Malcolm; Lambton, Ann Katharine Swynford; Lewis, Bernard (1977). "The Cambridge History of Islam". tr. 231–32.{{Chú thích tạp chí}}:Chú thích magazine cần|magazine= (trợ giúp)
^Kirakosian, J. S. (1972).Hayastane michazkayin divanakitut'yan ew sovetakan artakin kaghakakanut'yan pastateghterum, 1828–1923 [Armenia in the documents of international diplomacy and Soviet foreign policy, 1828–1923] (bằng tiếng Armenia). Yerevan. tr. 149–358.
^Kieser, Hans-Lukas; Schaller, Dominik J. (2002),Der Völkermord an den Armeniern und die Shoah [The Armenian genocide and the Shoah] (bằng tiếng Đức), Chronos, tr. 114,ISBN978-3-0340-0561-6
^Walker, Christopher J. (1980),Armenia: The Survival of A Nation, London: Croom Helm, tr. 200–03
^Robert Melson,Revolution and Genocide: On the Origins of the Armenian genocide and the Holocaust, University of Chicago Press, ngày 15 tháng 10 năm 1992, p. 147
^abЗакавказская федерация.Большая советская энциклопедия, 3-е изд., гл. ред. А. М. Прохоров. Москва: Советская энциклопедия, 1972. Т. 9 (A. M. Prokhorov; và đồng nghiệp, biên tập (1972). "Transcaucasian Federation".Great Soviet Encyclopedia (bằng tiếng Nga). Quyển 9. Moscow: Soviet Encyclopedia.
^De Waal, Thomas (2004).Black Garden: Armenia And Azerbaijan Through Peace and War. New York: New York University Press. tr. 240.ISBN978-0-8147-1945-9.
^"5. ՍՈՑԻԱԼ-ԺՈՂՈՎՐԴԱԳՐԱԿԱՆ ՀԱՏՎԱԾ"(PDF) (bằng tiếng Armenia). ARMSTAT Statistical Committee of the Republic of Armenia. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2025.
^Turay, Anna."Tarihte Ermeniler". Bolsohays:Istanbul Armenians Like many other ethnicitiesArmenians in India too have played a role historically and had an impact historically. Today however the community has been reduced to about a hundred living inCalcutta.Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2007.
^"Armenian Census 2011"(PDF) (bằng tiếng Armenia). tr. 7. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
^Charles Dowsett, E. Peters.Sayat'-Nova. An 18th-century Troubadour: a Biographical and Literary Study. Peeters Publishers, 1997ISBN90-6831-795-4; p. xv
^Hacikyan, Agop Jack; Basmajian, Gabriel; Franchuk, Edward S.; Ouzounian, Nourhan (2000).The Heritage of Armenian Literature: From the Oral Tradition to the Golden Age. Detroit: Wayne State University Press. tr. 91.ISBN978-0-8143-2815-6.