Trước thời hiện đại, nó được chia làm bốn phân vùng:Hejaz,Najd,Nam Ả Rập (Hadhramaut) vàĐông Ả Rập. Hejaz và Najd tạo nên đa phần Ả Rập Xê Út. Nam Ả Rập bao gồmYemen và vài phần của Ả Rập Xê Út (Najran,Jizan,Asir) và Oman (Dhofar). Đông Arabia bao gồm toàn bộ vùng duyên hải dọc theo vịnh Ba Tư.
Trong lịch sử, bán đảo Ả Rập là nơi có dân số ít ỏi, song trong cácthập niên qua có mức tăng trưởng dân số cao, nguyên nhân là dòng lao động nhập cư rất lớn cùng với duy trì liên tục mức sinh cao. Dân số có xu hướng tương đối trẻ và chênh lệch lớn về giới tính do nam giới đông hơn. Tại nhiều quốc gia, số người Nam Á đông hơn công dân địa phương. Bốn quốc gia nhỏ nhất nằm ven vịnh Ba Tư có mức tăng trưởng dân số cao nhất thế giới, khi gần gấp ba lần sau mỗi 20 năm. Đến năm 2022, ước tính dân số bán đảo Ả Rập là 92,273,394 (bao gồm ngoại kiều).[4]
Bán đảo Ả Rập nằm trên lục địa châu Á, giáp vớiVịnh Ba Tư về phía đông bắc,eo biển Hormuz vàvịnh Oman về phía đông,biển Ả Rập về phía đông nam và nam,vịnh Aden về phía nam, eo biểnBab-el-Mandeb về phía tây nam, vàbiển Đỏ về phía tây và tây bắc.[5] Phần phía bắc của bán đảo hoà vàohoang mạc Syria và không có ranh giới rõ ràng, song ranh giới phía bắc của bán đảo Ả Rập thường được nhìn nhận là biên giới phía bắc của Ả Rập Xê Út và Kuwait.[5]
Đặc điểm nổi bật nhất của bán đảo làhoang mạc, song tại phần tây nam có các dãy núi và nhận được lượng mưa lớn hơn phần còn lại của bán đảo.Harrat ash Shaam là khu núi lửa mở rộng từ miền tây bắc bán đảo đếnJordan và miền namSyria.[6]
Sáu quốc gia (Ả Rập Xê Út, Kuwait, Bahrain, Qatar, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Oman) hợp thànhHội đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC). Tuy nhiên, đây là một thuật ngữ gây tranh luận, người Iran khẳng định rằng tên gọi vịnh Ba Tư có quy ước lịch sử và được quốc tế công nhận, trong khi các quốc gia Ả Rập, nhất là sáu thành viên của GCC thì cho rằng tên của vịnh này là Ả Rập do vực biển nông của vùng biển này là phần tiếp tục về địa chất của bờ biển thấp phía đông bán đảo, từ Kuwait đến miền bắc UAE.[7]
Vương quốc Ả Rập Xê Út chiếm phần lớn diện tích bán đảo. Đa số cư dân của bán đảo sống tại Ả Rập Xê Út và Yemen. Bán đảo có trữ lượng dầu mỏ lớn nhất thế giới. Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất có nền kinh tế lớn nhất trong khu vực.Qatar có trữ lượng khí đốt tự nhiên hàng đầu thế giới.Kuwait có biên giới với Iraq, là một quốc gia có tầm quan trọng chiến lược, có vai trò là một trong các căn cứ chính của lực lượng liên quân trong cuộcxâm chiếm Iraq vào năm 2003.
Một đoàn lữ hành vượt hoang mạc ad-Dahna tại miền trung Ả Rập Xê Út.Ras Aljinz tại đông nam bán đảo Ả Rập (Oman), còn gọi là 'bãi biển rùa'.
Về mặt địa chất, khu vực này có lẽ thích hợp hơn với tên gọi là tiểu lục địa Ả Rập do nó nằm trên mộtmảng kiến tạo riêng làmảng Ả Rập. Mảng này di chuyển xa dần khỏi phần còn lại của châu Phi (tạo nên biển Đỏ), và va chạm vớimảng Á-Âu ở phía bắc (hình thànhdãy núi Zagros). Các phiến đá lộ ra sự khác nhau về hệ thống trên khắp bán đảo Ả Rập, với những phiến đá cổ nhất lộ ra tại khiên Ả Rập-Nubia gần biển Đỏ. Có lẽophiolit được bảo tồn tốt nhất trên Trái đất là ophiopit Semail, lộ ra trên các dãy núi của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và miền bắc Oman.
Bán đảo gồm có:
Cao nguyên trung tâmNajd, có các thung lũng và đồng cỏ phì nhiêu được dùng làm nơi chăn thả cừu và các loài gia súc khác
TạiHejaz có các dãy núi song song với bờ biển Đỏ tại phía tây, song cũng có núi tại cực đông nam của bán đảo (Oman). Các dãy núi cao dần về phía tây, và các đỉnh và rặng cao nhất đều nằm tại Yemen. Núi cao nhất bán đảo làJabal an Nabi Shu'ayb tại Yemen, có độ cao 3.666 m.
Dải bờ biển khô hoặc đầm lầy trải dài cùng các rạn san hô về phía biển Đỏ (Tihamah)
Các ốc đảo và đầm lầy ven biển tạiĐông Ả Rập về phía vịnh Ba Tư
Bán đảo Ả Rập có ít hồ hoặc là sông vĩnh cửu. Hầu hết các khu vực được tiêu nước qua các lòng sông chóng cạn gọi làwadi, những nơi này luôn khô ngoại trừ trong mùa mưa. Tuy nhiên,tầng ngậm nước cổ đại phong phú nằm bên dưới phần lớn bán đảo, và những nơi nguồn nước này nổi lên bề mặt được gọi là ốc đảo (nhưAl-Hasa vàQatif, hai trong số những ốc đảo lớn nhất thế giới), cho phép phát triển nông nghiệp, đặc biệt là các cây thuộchọ cọ, và đây là vùng sản xuất chà là nhiều nhất thế giới. Về tổng thể, khí hậu cực kỳ nóng và khô, song có những ngoại lệ. Những nơi có độ cao lớn hơn có khí hậu ôn hoà hơn, và bờ biển ven biển Ả Rập có thể đón các cơn gió nhẹ mát và ẩm bất chợt vào mùa hè do khí lạnh từ xa bờ tràn vào. Bán đảo không có rừng cây rậm rạp. Đời sống hoang dã thích nghi với hoang mạc tồn tại trên khắp bán đảo.
Theo dữ liệu vệ tinh GRACE của NASA (2003 - 2013) được phân tích trong một nghiên cứu củaĐại học California, Irvine (UCI) vào năm 2015, thì hệ thống tầng ngậm nước chịu ứng suất lớn nhất trên thế giới là hệ thống tầng ngậm nước Ả Rập, với trên 60 triệu người dựa vào nó để lấy nước.[9] 21 trong số 37 tầng ngậm nước "đã vượt qua đỉnh điểm bền vững và đang suy kiệt" và 13 trong số đó "bị kiệt quệ đáng kể."[9]
Hầu hết bán đảo Ả Rập không thích hợp cho nông nghiệp, khiến các dự án tưới tiêu và cải tạo đất trở nên thiết yếu. Các đồng bằng hẹp ven biển và các ốc đảo cô lập tổng cộng chiếm dưới 1% diện tích đất, và chúng được sử dụng để trồng cây lương thực, cà phê và cây ăn quả nhiệt đới. Chăn nuôi dê, cừu và lạc đà phổ biến ở một số nơi trên khắp phần còn lại của bán đảo. Một số khu vực có khí hậu gió mùa nhiệt đới ẩm vào mùa hè, đặc biệt là các khu vựcDhofar vàAl Mahrah của Oman và Yemen. Các khu vực này có các đồn điền dừa với quy mô lớn. Hầu hết Yemen có mưa gió mùa nhiệt đới do ảnh hưởng từ khí hậu núi. Các đồng bằng thường có khí hậu khô hạn nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc là khí hậu thảo nguyên khô hạn.
Vùng biển xung quanh bán đảo Ả Rập nhìn chung là vùng biển nhiệt đới, có đời sống sinh vật biển nhiệt đới rất phong phú, có một số trong những rạnsan hô lớn nhất, nguyên vẹn và cổ xưa nhất trên thế giới. Ngoài ra, sinh vật sống cộng sinh với san hô biển Đỏ,động vật nguyên sinh và tảo đơn bào zooxanthellae, thích nghi độc đáo với khí hậu nóng khi nhiệt độ nước biển tăng và giảm đột ngột. Do đó, các rạn san hô này không chịu tác động trước hiện tượng tẩy trắng san hô do nhiệt độ gia tăng như những nơi khác trong vùng biển san hô Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Các rạn san hô cũng không chịu tác động từ du lịch hay lặn biển ở mức lớn hoặc các can thiệp quy mô lớn khác của con người. Tuy nhiên, một số rạn san hô đã bị tàn phá trong vịnh Ba Tư, hầu hết là do ô nhiễm nước phosphat và kết quả là gia tăng phát triển tảo, cũng như là do ô nhễm do rò rỉ từ các tàu và đường ống[cần dẫn nguồn].
Các vùng đất phì nhiêu tại Yemen tạo thuận lợi cho việc định cư trên hầu như toàn bộ vùng đất cao từ mực nước biển đến các núi cao 3.000 m. Tại những nơi có độ cao lớn, các ruộng bậc thang phức tạp được tạo nên để thuận tiện cho cánh tác cây lương thực, cây ăn quả, cà phê, gừng vàkhat.
Tồn tại bằng chứng cho thấy rằng con người cư trú tại bán đảo Ả Rập từ khoảng 106.000 đến 130.000 năm trước.[10] Tuy nhiên, khí hậu khắc nghiệt trong lịch sử ngăn cản việc định cư quy mô lớn tại đây, ngoài một số lượng nhỏ các khu định cưmậu dịch đô thị nhưMecca vàMedina nằm tạiHejaz tại miền tây bán đảo.[11]
Tuy nhiên, khảo cổ học khám phá sự tồn tại của nhiều nền văn minh trên bán đảo Ả Rập vào thời tiền Hồi giáo (nhưThamud), đặc biệt là tạiNam Ả Rập.[12][13] Các nền văn minh Nam Ả Rập gồm cóSheba,Vương quốc Himyar,Vương quốc Awsan,Vương quốc Ma'īn vàVương quốc Sabae. Trung Ả Rập có Vương quốcKindah vào thế kỷ IV, V và đầu thế kỷ VI.Đông Ả Rập có nền văn minhDilmun. Các bằng chứng sớm nhất được biết đến về lịch sử bán đảo Ả Rập là các cuộc di cư từ bán đảo sang các khu vực lân cận.[14]
Bán đảo Ả Rập trong một thời gian dài được phần lớn học giả chấp nhận là quê hương ban đầu theo giả thuyết củaNhóm ngôn ngữ Semit.[15][16][17][18]
Bành trướng vào thờiMuhammad, 622–632/1–11 lịch Hồi giáo
Bành trước vào thờiĐế quốc Rashidun, 632–661/11–40 lịch Hồi giáo
Bành trướng vào thờiĐế quốc Umayyad, 661–750/40–129 lịch Hồi giáo
Trong thế kỷ VII, Hồi giáo được giới thiệu trên bán đảo Ả Rập. Nhà tiên tri Hồi giáoMuhammad sinh tại Mecca vào khoảng năm 570 và lần đầu tiên bắt đầu thuyết phát tại thành phố vào năm 610, songdi cư đếnMedina vào năm 622. Từ đó, ông và các đồng môn thống nhất các bộ lạc trên bán đảo Ả Rập dưới ngọn cờ Hồi giáo và lập ra một chính thể tôn giáo Hồi giáo Ả Rập duy nhất trên bán đảo.
Sau khi Muhammad mất vào năm 632, bất đồng bùng phát về vấn đề người kế nhiệm ông làm lãnh đạo của cộng đồng Hồi giáo.Umar ibn al-Khattab là một đồng môn nổi bật của Muhammad thì đề cửAbu Bakr, là bằng hữu và người cộng tác thân mật của Muhammad. Những người khác cũng ủng hộ và Abu Bakr trở thànhkhalip đầu tiên. Lựa chọn này bị một số đồng môn của Muhammad tranh luận, họ cho rằng người anh họ đồng thời là con rể của Muhammad làAli ibn Abi Talib đã được chỉ định làm người thừa kế. Nhiệm vụ trước mắt của Abu Bakr là trả thù một một thất bại mới đây trước quânĐông La Mã (Byzantine), song trước tiên ông phải dập tắt một cuộc nổi dậy của các bộ lạc trong điều được gọi làcác cuộc chiến tranh Ridda, hay "các cuộc chiến tranh bội giáo".[19]
Đến khi Abu Bakr mất vào năm 634, người kế vị ông làm khalip làUmar, tiếp đến làUthman ibn al-Affan vàAli ibn Abi Talib. Giai đoạn bốn khalip đầu tiên này gọi làal-khulafā' ar-rāshidūn:Khalifah Rashidun. Dưới quyền các khalip này, và từ năm 661 là những người kế thừaUmayyad của họ, người Ả Rập nhanh chóng bành trướng lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của người Hồi giáo ra ngoài bán đảo Ả Rập. Trong vài thập niên, các đội quân Hồi giáo giành được các chiến thắng quyết định trước Đông La Mã và tiêu diệtĐế quốc Ba Tư,chinh phục được vùng lãnh thổ khổng lồ từbán đảo Iberia đến Ấn Độ. Trọng điểm chính trị của thế giới Hồi giáo sau đó chuyển đến các lãnh thổ mới chinh phục được.[20][21]
Dù quan trọng về tôn giáo, song về chính trị bán đảo Ả Rập nhanh chóng trở thành một khu vực ngoại vi của thế giới Hồi giáo, khi mà hầu hết các nhà nước Hồi giáo quan trọng nhất vào thời trung đại đặt tại các thành phố xa bán đảo nhưDamascus,Baghdad vàCairo. Tuy nhiên, kể từthế kỷ X (và thực tế là cho đếnthế kỷ XX) cácSharif của Mecca thuộcgia tộc Hashim duy trì một nhà nước tại Hejaz, cũng là phần đất phát triển nhất trong khu vực. Lãnh địa của họ ban đầu chỉ bao gồm các thành phố linh thiêngMecca vàMedina song đến thế kỷ XIII được mở rộng ra phần còn lại củaHejaz. Các Sharif thi thành quyền lực độc lập tại Hejaz trong hầu hết các giai đoạn, song họ thường quy phục quyền bá chủ của một trong các đế quốc Hồi giáo lớn vào đương thời. Trong thời trung đại, đó làAbbas tạiBaghdad, vàFatima,Ayyub vàMamluk của Ai Cập.[24]
Các lãnh thổ mà Ottoman giành được từ năm 1481 đến năm 1683Bán đảo Ả Rập năm 1914.
Quân đội cấp địa phương củaĐế quốc Ottoman tại Ả Rập (Arabistan Ordusu) có đại bản doanh tại Syria (bao gồm cả Palestine, Ngoại Jordan cùng với Liban). Nó phụ trách Syria, Cilicia, Iraq, và phần còn lại của bán đảo Ả Rập.[25][26] Người Ottoman chưa từng kiểm soát phần trung tâm bán đảo Ả Rập, còn gọi làNajd.
Đến thời hiện đại, thuật ngữ bilad al-Yaman ám chỉ riêng phần tây nam của bán đảo. Các nhà địa lý Ả Rập bắt đầu ám chỉ toàn bộ bán đảo là 'jazirat al-Arab', hay bán đảo của người Ả Rập.[27]
Vào lúc khởi đầu thế kỷ XX, Ottoman lao vào một kế hoạch nhiều tham vọng là xây dựng một tuyến đường sắt liên kết kinh đôIstanbul đếnHejaz với các đền thờ Hồi giáo linh thiêng tại đây. Mục tiêu quan trọng khác là nhằm cải thiện tích hợp kinh tế và chính trị các của các tỉnh Ả Rập xa xôi với nhà nước Ottoman, và tạo thuận lợi để vận chuyển binh sĩ trong trường hợp cần thiết.Đường sắt Hejaz chạy từDamascus đếnMedina, xuyên qua vùng Hejaz. Ban đầu nó được lên kế hoạch vươn đếnMecca, song bị gián đoạn do bùng phátChiến tranh thế giới thứ nhất.
Những bước phát triển lớn vào đầu thế kỷ XX làkhởi nghĩa Ả Rập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, và tiếp đến là việcĐế quốc Ottoman sụp đổ và bị phân chia. Khởi nghĩa Ả Rập (1916–1918) doSherif Hussein ibn Ali khởi xướng với mục tiêu tìm cách độc lập khỏi quyền cai trị của Ottoman và lập một nhà nước Ả Rập thống nhất trải dài từAleppo tạiSyria đếnAden thuộc Yemen. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Sharif Hussein tham gia vào một liên minh với Anh và Pháp nhằm chống lại Ottoman vào tháng 6 năm1916.
Tiếp đến là sự kiệnthống nhất Ả Rập Xê Út dưới quyềnAbdulaziz Ibn Saud. Năm 1902, Ibn Saud chiếm đượcRiyadh, ông tiếp tục các cuộc chinh phục, chiếm lĩnh đượcAl-Hasa,Jabal Shammar,Hejaz từ năm 1913 đến năm 1926 rồi thành lập nhà nước Ả Rập Xê Út hiện đại. Ả Rập Xê Út sáp nhậpTiểu vương quốc Asir, và quá trình bành trướng của họ kết thúc vào năm 1934 sauchiến tranh với Yemen. Gia tộc Saud từng thành lập hai nhà nước và kiểm soát một phần lớn bán đảo Ả Rập trước thời Ibn Saud, Ả Rập Xê Út là nhà nước thứ ba của gia tộc Saud.
Phát hiện được các trữ lượng dầu mỏ lớn tại bán đảo Ả Rập trong thập niên 1930. Sản xuất dẩu mỏ đem đến nguồn của cải rất lớn cho các quốc gia trong khu vực, ngoại trừ Yemen.
Nội chiến Bắc Yemen là cuộc đấu tranh giữa những người bảo hoàng củaVương quốc Mutawakkilite Yemen và các phái củaCộng hòa Ả Rập Yemen từ năm 1962 đến năm 1970. Phái bảo hoàng được Ả Rập Xê Út ủng hộ, trong khi những người cộng hoà được Ai Cập vàLiên Xô ủng hộ. Các lực lượng chính quy và không chính quy nước ngoài cũng can thiệp. Đến năm 1970, Quốc vươngFaisal của Ả Rập Xê Út công nhận nước cộng hoà này và một hoà ước được ký kết. Các sử gia quân sự Ả Rập quy chiến tranh tại Yemen giống như Việt Nam của họ.[28]
Năm 1990,Iraqxâm chiếm Kuwait,[29] dẫn đếnChiến tranh Vùng Vịnh 1990–91.Ai Cập,Qatar,Syria vàẢ Rập Xê Út tham gia một liên minh đa quốc gia để phản đối Iraq. Tuy nhiên, Jordan vàPalestine ủng hộ Iraq, khiến quan hệ giữa nhiều quốc gia Ả Rập trở nên căng thẳng. Sau chiến tranh, "Tuyên bố Damascus" chính thức hoá liên minh về các hành động phòng thủ chung trong tương lai giữa Ai Cập, Syria, và các quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh.[30]
^abc“Arabia”.Britannica Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
^Weinstein, Y. (ngày 1 tháng 1 năm 2007). “A transition from strombolian to phreatomagmatic activity induced by a lava flow damming water in a valley”.Journal of Volcanology and Geothermal Research.159 (1–3): Pages 267–284.doi:10.1016/j.jvolgeores.2006.06.015.
^A.S. Alsharhan, Z. A. Rizk, A. E. M. Nairn [et al.], 2001, Hydrogeology of an Arid Region, Elsevier.
^Prothero, G.W. (1920).Arabia. Luân Đôn: H.M. Stationery Office. tr. 15.
^see Richard Schofield, Kuwait and Iraq: Historical Claims and Territorial. Disputes, Luân Đôn: Royal Institute of International Affairs 1991,ISBN0-905031-35-0 and The Kuwait Crisis: Basic Documents, By E. Lauterpacht, C. J. Greenwood, Marc Weller, Published by Cambridge University Press, 1991,ISBN0-521-46308-4
^Egypt's Bid for Arab Leadership: Implications for U.S. Policy, By Gregory L. Aftandilian, Published by Council on Foreign Relations, 1993,ISBN0-87609-146-X, pages 6–8