Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Angola

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Angola
Tên bản ngữ

Tiêu ngữVirtus Unita Fortior
"Đức hạnh đoàn kết mạnh mẽ hơn."

Quốc ca"Angola Avante"
"Angola tiến lên"
Vị trí của Angola (xanh) trên thế giới.
Vị trí của Angola (xanh) trên thế giới.
Vị trí của Angola (đỏ) ở Nam Phi.
Vị trí của Angola (đỏ) ởNam Phi.
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Luanda
8°50′N13°20′Đ / 8,833°N 13,333°Đ /-8.833; 13.333
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Bồ Đào Nha
• Ngôn ngữ quốc gia được công nhận
Sắc tộc
(2000)
Tôn giáo
(2015)[1]
Tên dân cư
Chính trị
Chính phủCộng hòa lập hiếnđơn nhấtđảng ưu thếtổng thống chế
João Lourenço
Bornito de Sousa
Lập phápQuốc hội
Lịch sử
Thành lập
11 tháng 11 năm 1975
• Kết thúcnội chiến
4 tháng 4 năm 2002
21 tháng 1 năm 2010
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
1.246.700 km2 (hạng 22)
481.354 mi2
• Mặt nước (%)
không đáng kể
Dân số 
• Ước lượng 2021
32.097.671[2] (hạng 45)
• Điều tra 2014
25.789.024[3]
23/km2 (hạng 157)
59,6/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2023
• Tổng số
Tăng 260,323 tỷ đô la Mỹ[4] (hạng 62)
Tăng 7.077 đô la Mỹ[4] (hạng 129)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2023
• Tổng số
Giảm 93,796 tỷ đô la Mỹ[4] (hạng 61)
• Bình quân đầu người
Giảm 2.432 đô la Mỹ[4] (hạng 125)
Đơn vị tiền tệKwanza (Kz) (AOA)
Thông tin khác
Gini? (2018)51,3[6]
cao
HDI? (2023)Tăng 0,616[7]
trung bình · hạng 148
Múi giờUTC+1 (WAT)
Cách ghi ngày thángdd/mm/yyyy
(ngày/tháng/năm)
Điện thương dụng220 V–50 Hz[5]
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+244
Mã ISO 3166AO
Tên miền Internet.ao
Location of Angola
Bản đồ Angola năm 2013.
Biểu tượng quốc gia
Quốc thụ
Quốc điểuTuraco mào đỏ (Tauraco erythrolophus)[9]
Quốc thúLinh dương đen Đông Phi (Hippotragus niger)[8]

Angola (phát âm tiếng Bồ Đào Nha:[ɐ̃ˈɡɔlɐ], phiên âmtiếng Việt:An-gô-la), tên chính thức làCộng hòa Angola (tiếng Bồ Đào Nha:República de Angola,phát âm tiếng Bồ Đào Nha:[ʁɛ'publikɐɐ̃'gɔlɐ]) là mộtquốc gia ở miền namchâu Phi, nằm bên bờĐại Tây Dương. Nước này có chung biên giới vớiNamibia,Cộng hòa Dân chủ Congo, vàZambia. TỉnhCabinda tách bên ngoài quốc gia của Angola có chung biên giới vớiCộng hòa Congo. Là một thuộc địa cũ củaBồ Đào Nha do đó, còn có tên khác là miềnTây Bồ Đào Nha. Cuộc nội chiến tại vẫn còn tiếp diễn sau khi Angola độc lập cho đếnthập niên 2000. Nước này trên danh nghĩa là mộtnền dân chủ và tên trước kia của nó làCộng hòa Angola.

Tên Angola bắt nguồn từN'gola củanhóm ngôn ngữ Bantu, đây là tên hiệu của người cai trị vùng đất này trước khi bị cai trị bởi Bồ Đào Nha.Luanda là thủ đô và thành phố lớn nhất của Angola.Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính thức, các tiếng trong nhóm ngôn ngữ Bantu chỉ được dùng trong các vùng hẻo lánh.

Angola là một trong những quốc gia giàutài nguyên thiên nhiên bậc nhất châu Phi. Quốc gia này có nguồndầu mỏ,khí thiên nhiên,kim cương và nhiều loạikhoáng sản khác. Mặc dù vậy, nước này vẫn thuộcnhóm kém phát triển, phần lớn dân số đang sống dưới mứcnghèo đói, Angola cũng là một trong những quốc gia cótuổi thọ trung bình thấp nhất vàtỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao nhất trên thế giới.[10]

Địa lý

[sửa |sửa mã nguồn]
Bãi biển Coatinha ởBenguela.
Thung lũng Miradouro da Lua (Thung lũng củamặt Trăng cách thủ đôLuanda 40 km về phía nam.
Bài chi tiết:Địa lý Angola

Với diện tích 1.246.700km² ([1]Lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2007 tạiWayback Machine), Angola là nước lớn thứ hai ba châu Phi (sauNiger). Nó có kích cỡ tương tựMali và gần gấp hai lần bangTexas củaHoa Kỳ.

Angola có chung biên giới vớiNamibia ở phía nam,Zambia ở phía đông,Cộng hòa Dân chủ Congo ở phía đông bắc, và NamĐại Tây Dương ở phía tây. Tỉnhngoài lãnh thổCabinda có chung biên giới vớiCộng hòa Congo ở phía bắc. Thủ đô Angola,Luanda, nằm trên bờĐại Tây Dương ở phía tây bắc đất nước. Nhiệt độ trung bình vùng bờ biển của Angola là 16 °C (60 độ Fahrenheit) vào mùa đông và 21 °C (70 độ Fahrenheit) vào mùa hè.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Nữ hoàng Nzinga trong cuộc đàm phán hòa bình với Toàn quyền Bồ Đào Nha tại Luanda, 1657.
Bài chi tiết:Lịch sử Angola

Những người dân đầu tiên sống ở vùng này là nhữngngười săn bắn hái lượmKhoisan. Sau này họ đã bị các bộ tộc Bantu thay thế trong những cuộcdi cư của bộ tộc này. Trước thời kì thuộc địa, vùng lãnh thổ này là nơi định cư củangười Bantu. Vương quốc được đặt theo tên của nhà vua N' Gola, gọi là N' Dongo. Năm1482, nhà hàng hảiBồ Đào NhaDiogo Cão phát hiện ra vùng đất này. Từ đó, tình trạng mua bánnô lệ ngày càng gia tăng, làm suy yếu đất nước.

Người Bồ Đào Nha bắt đầu cuộc chinh phụcvương quốc N' Dongo và đánh bại vương quốc N' Dongo vào năm 1622. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến của người bản xứ vẫn tiếp tục dưới sự dẫn dắt của một phụ nữ thuộc dòng dõi hoàng gia,A-Nzinga. Bị đánh bại vào năm 1648,A-Nzinga phải rút lui sâu vào những vùng mà thực dânBồ Đào Nha không thể thâm nhập được. Năm 1665, Angola trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha. Năm 1704, thực dân Bồ Đào Nha đã thiêu sống một thiếu nữ tên làKimpa Vita vì đã huy động hàng ngàn người nổi dậy.

Sau khi mất quyền sở hữuBrasil (1822), thực dân Bồ Đào Nha tiến hành các cuộc thám hiểm và chinh phục sâu vào bên trong lãnh thổ (1852). Họ lao vào cuộc chiến tấn công vương quốc của ngườiOvimbundu (1890-1904), đương đầu vớingười Lundas (1894-1926).

Năm 1954,Agostinho NetoMario de Andrade thành lậpPhong trào Nhân dân Giải phóng Angola (MPLA). Từ năm 1955, Angola trở thành tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha. Năm 1961, cuộc nổi dậy ởLuanda mở đầu cuộc chiến tranh giành độc lập nhưng phong tràochủ nghĩa dân tộc bị chia rẽ.

Năm 1975, Angola giành được độc lập nhưng đất nước lại rơi vào tình trạng nội chiến. Chính phủ của Tổng thống Agostinho Neto được sự giúp đỡ củaCuba phải đương đầu vớiLiên minh Dân tộc vì nền Độc lập Toàn vẹn Angola (UNITA) đượcNam Phi hậu thuẫn. Năm 1979, sau khi Tổng thống Neto qua đời, Dos Santos tiếp tục lãnh đạo đất nước. Năm 1988, hiệp định được ký kết giữa Angola,Nam PhiCuba dẫn đến việc đình chiến trong vùng lãnh thổ BắcNamibia và Nam Angola. Từ năm 1989, quân đội Nam Phi và Cuba rút khỏi Angola.

Năm 1990, Tổng thống Dos Santos công bố sắc lệnh thiết lập thể chế đa đảng. Năm 1992, cuộc bầu cử đa đảng được tiến hành, Tổng thống đương nhiệmJosé Eduardo dos Santes và MPLA thắng cử.Savimbi và UNITA thất cử gian lận và phát động một cuộc nội chiến mới.

Bốn năm tương đối yên tĩnh (1994-1998), kể từ khiLiên Hiệp quốc giám sátHiệp định hòa bình Lusaka năm 1994.

Năm1997, Angola đồng ý thành lập một Chính phủ liên minh với UNITA, nhưng Savimbi xâm phạm Hiệp định bằng cách từ chối hủy bỏ căn cứ, không giải tán quân đội và chiếm lại một số lãnh thổ. Do đó, Chính phủ trì hoãn việc liên minh năm 1998 và đất nước chìm sâu vào nội chiến. Các công dân Angola lại phải tiếp tục hứng chịu đau khổ. Sự thù nghịch gây ảnh hưởng đến bốn triệu người (1/3 dân số) và khoảng hai triệu người phải đi tị nạn.

Tháng 2 năm 2002, quân đội Chính phủ đã giếtJonas Savimbi.

Quân đội đã hoàn toàn kiệt sức của Savimbi sẵn sàng hạ vũ khí đầu hàng. Sáu tuần lễ sau, các lãnh đạo phe nổi dậy ký hiệp định ngừng bắn, báo hiệu kết thúc cuộc nội chiến kéo dài 30 năm. Trong vòng năm tuần lễ kế tiếp, 80% quân đội nổi dậy đã giải trừ vũ khí, trật tự được bảo đảm nhưng khoảng hơn nửa triệu dân Angola phải đối mặt trước nạn đói.

Thời kỳ thuộc địa

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm1648,Bồ Đào Nha tái chiếmLuanda và khởi động quá trình tái chinh phục những vùng đất đai đã mất, và đã hoàn toàn khôi phục quyền kiểm soát năm1650. Những hiệp ước về quan hệ vớiKongo năm1649Vương quốc Matamba củaNjinga cũng nhưNdongo năm1656. Cuộc chinh phụcPungo Andongo năm1671 là cuộc mở rộng lớn cuối cùng của người Bồ Đào Nha, bởi những nỗ lực chinh phục Kongo năm1670 và Matamba năm1681 không thành công.

Bồ Đào Nha đã mở rộng lãnh thổ quả mình phía sau thuộc địaBenguelathế kỷ XVIII, và bắt đầu nỗ lực chiếm các vùng khác vào giữathế kỷ XIX. Quá trình này mang lại ít thắng lợi cho tới tận những năm1880. Quyền kiểm soát hành chính hoàn toàn của Bồ Đào Nha ở vùng phía trong chỉ thực sự diễn ra từ đầuthế kỷ XX. Năm1951 thuộc địa được đổi thành một tỉnh hải ngoại, cũng được gọi làTây Phi Bồ Đào Nha.

Bồ Đào Nha đã hiện diện tại Angola trong gần 500 năm, và những phản ứng đầu tiên của người dân ở đây nhằm kêu gọi một nền độc lập rất pha tạp.

Độc lập

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi lật đổ chính phủphát xítBồ Đào Nha bằng một cuộc đảo chính mang hơi hướngxã hội chủ nghĩa, các đảng quốc gia Angola bắt đầu đàm phán về độc lập vàotháng 1 năm1975. Một thỏa thuận vớichính phủ Bồ Đào Nha được đưa ra, theo đó độc lập cho Angola sẽ được tuyên bố vàotháng 11 năm1975. Hầu như ngay lập tức, một cuộcnội chiến nổ ra giữaMPLA,UNITAFNLA, và ngày càng trầm trọng thêm với sự can thiệp từ bên ngoài. Ngay khi độc lập khỏi Bồ Đào Nha năm1975, thủ đô và chính phủ danh nghĩa của Angola rơi vào Phong trào Giải phóng Nhân dân độc đảng trị. Trước đó, UNITA và FLNA đượcZaire,Hoa Kỳ,vàNam Phi hậu thuẫn đã kiểm soát được miền Bắc, miền Nam, Tây và Tây Nam. Một phần Miền trung, bờ biển phía Tây vàThủ đôLuanda do MPLA kiểm soát. Một thời gian trước khi dược trao trả độc lập, cuộc nội chiến bắt đầu.

Để bảo vệ 1.376 kilômét biên giới vớiTây Nam Phi của Angola chống lại sự xâm nhập của du kíchTổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO) có cơ sở tại Angola, các lực lượng quân độiNam Phi đã dọn một dải trắng rộng một kilômét tại Angola vớichiều dài gần một nửa đường biên giới.Zaire, vốn từng cung cấp hỗ trợ cho các du kích FNLA, nhanh chóng cung cấp viện trợ cho cả UNITA. Tới lượt mình,Liên bang Xô viết tăng mạnh viện trợ quân sự choMPLA với các thiết bị quân sự nhưxe bọc thép,máy bay, cố vấn, trong khi một số lượng lớn quân độiCuba được máy bayLiên Xô đưa tới Angola trong một nỗ lực công khai nhằm thiết lập sự cân bằng quân sự có lợi cho MPLA. Tớitháng 10 năm1975, MPLA và các lực lượngCuba đã kiểm soátLuanda, và đa phần cơ sở hạ tầng đất nước, buộc các lực lượng UNITA phải chuyển sang chiến thuậtdu kích. MPLA đơn phương tuyên bố mình là chính phủ thực tế của đất nước khi độc lập được tuyên bố chính thức vàongày 11 tháng 11, vàAgostinho Neto trở thànhtổng thống Angola đầu tiên.NướcCộng hòa nhân dân Angola ra đời (đến năm1991hệ thống đa đảng được áp dụng,Nhà nước đổi tên làCộng hòa Angola).

Năm1976, FNLA bị quân độiCuba đánh bại, chỉ còn lại MPLA và UNITA (khi ấy được Hoa Kỳ và Nam Phi hậu thuẫn) cạnh tranh quyền lực. Từ năm1979,Jose Eduardo dos Santos đã nắm quyền lãnh đạo chính trị đất nước. Dù hệ thống đa đảng đã được áp dụng từ năm1991, Đảng Lao động của Phong trào Giải phóng Nhân dân vẫn nắm quyền lực.

Nội chiến

[sửa |sửa mã nguồn]

Cuộc xung đột giữa MPLA và UNITA diễn ra ở vùng nông thôn, được tiếp thêm sức lực bởi cuộc xung đột địa chính trị thờiChiến tranh lạnh và bởi khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên Angola của cả hai bên. MPLA dựa vào nguồn tài chính từ dầu mỏ ngoài khơi, trong khi UNITA lại có được nguồnkim cương dễ dàng buôn lậu được qua vùng biên giới (LeBillon, 1999).

Năm 1991, hai bên đồng ý vớiHiệp ước Bicesse với ý định chuyển đổi Angola từ một nước một đảng thành một chế độ đa đảng với các cuộc bầu cử dân chủ năm 1992. Tổng thống dos Santos dẫn đầu sau vòng một cuộc bỏ phiếu với hơn 49% số phiếu bầu, trong khi Jonas Savimbi đạt 40%. Sau những tuyên bố gian lận bầu cử, cuộc nội chiến tiếp diễn, và vòng bầu cử tiếp theo không bao giờ diễn ra.

Một hiệp ước hòa bình năm1994 (nghị định thưLusaka) giữa chính phủ và UNITA tạo cơ hội cho lực lượng UNITAphiến loạn cũ tham gia chính phủ. Một chính phủ hợp nhất quốc gia được thành lập năm1997, nhưng nhiều trận đánh đẫm máu lại tái diễn cuối năm1998, khiến hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Tổng thống dos Santos một lần nữa lại ngừng kế hoạch về một chính phủ thống nhất. Dù có lời hứa về một chính phủ bầu cử dân chủ và một hệ thống đa đảng, Đảng Lao động của Mặt trận Giải phóng Nhân dân (PLM) vẫn nắm quyền lực.

Ngừng bắn với UNITA

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày22 tháng 2 năm2002,Jonas Savimbi, lãnh đạo UNITA, đã bị giết trong một trận đánh với quân chính phủ, và một thỏa thuận ngừng bắn diễn ra giữa hai phe. UNITA từ bỏ nhánh vũ trang và nắm vai trò đảng đối lập chính. Dù tình thế chính trị trong nước bắt đầu ổn định, Tổng thống dos Santos vẫn từ chối tiến hành các quá trình gây dựng các định chế dân chủ. Trong số những vấn đề lớn của Angola có sự khủng hoảng nhân đạo (kết quả của cuộc chiến tranh kéo dài), số lượngmìn sát thương to lớn, và những hoạt động du kích đòi độc lập của tỉnh phía bắcCabinda (Frente para a Libertação do Enclave de Cabinda).

Như nhiều quốc giaHạ Sahara khác, Angola là nơi thường xuyên bùng phát các loại bệnh dịch lây nhiễm theo định kỳ. Tháng 4 năm 2005, Angola nằm ở trung tâmcuộc bùng phátvirus Marburg nhanh chóng trở thành vụ dịch sốt xuất huyết tồi tệ nhất trong lịch sử, với hơn 237 người chết trong số 261 người mắc bệnh, và đã lan ra 7 trên 18 tỉnh vào ngày19 tháng 4 năm2005.

Tổng thốngDos Santos đã cam kết sẽ tổ chức cuộc bầu cử quốc hội vào năm 2006. Angola đang từng bước tái thiết đất nước sau 27 năm nội chiến.

Từ hơn 1 nửa thế kỉ nay, cuộc nội chiến đã làm 1,5 triệu người chết, nghĩa là hơn 160 người mỗi ngày. Tổng thống Dos Santos đã tổ chức bầu cử tổng thống vào năm2008 sớm hơn dự kiến 1 năm. Cuộc bầu cử tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm2012.

Chính trị

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Chính trị Angola

Khẩu hiệu quốc gia của Angola là "Virtus Unita Fortior", một câu tiếngLa tinh nghĩa "Đoàn kết mang lại Sức mạnh".

Nhánh hành pháp củachính phủ gồmTổng thống,Thủ tướng (hiện tại làFernando da Piedade Dias dos Santos) và Hội đồng Bộ trưởng. Hiện nay, quyền lực chính trị tập trung trong tay Tổng thống. Hội đồng Bộ trưởng, gồm toàn bộ các bộ trưởng và thứ trưởng trong chính phủ, nhóm họp thường xuyên để bàn bạc các vấn đề chính sách. Toàn quyền 18 tỉnh được chỉ định và hành động theo chỉ đạo của Tổng thống. Luật Hiến pháp năm 1992 phác thảo cơ cấu chính phủ và mô tả các quyền cũng như nghĩa vụ công dân. Hệ thống pháp luật dựa trên mô hìnhBồ Đào Nha và luật phong tục nhưng nó còn yếu kém và chưa thống nhất, tòa án chỉ có mặt tại 12 trên tổng số 140 thành phố. Tòa án Tối cao đồng thời là tòa phúc thẩm; một Tòa án Hiến pháp với quyền lực phán xét nhưng chưa bao giờ thực thi quyền của mình. Những người chỉ trích đã so sánh chính quyền một đảng trị hiện nay tại Angola với chế độc độc tài củaAntónio de Oliveira Salazar tại Bồ Đào Nha, dưới thời cầm quyền của ông này người dân Angola đã bắt đầu đứng lên đòi độc lập từ nhiều năm trước.

Sau cuộcNội chiến Angola kéo dài 27 năm, tàn phá nền chính trị và các định chế xã hội đất nước. Liên hiệp quốc ước tính có 1.8 triệu người đã phải chuyển chỗ ở trong nước, trong khi con số người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh được nhiều bên chấp nhận là 4 triệu người. Những điều kiện sinh hoạt hàng ngày của người dân trên khắp nước và đặc biệt tạiLuanda (với số dân gần 4 triệu người) phản ánh sự sụp đổ của hạ tầng hành chính cũng như nhiều định chếxã hội. Tình hình kinh tế nguy ngập hiện nay đã ngăn cản bất kỳ nỗ lực nào của chính phủ nhằm hỗ trợ các định chế xã hội. Bệnh viện không có thuốc hay những trang thiết bị căn bản, trường học không có sách, và những công chức thường thiếu thiết bị làm việc cần thiết hàng ngày.

Chính phủ hiện nay đã thông báo ý định tổ chức bầu cử vào năm 2006. Các cuộc bầu cử đó là lần đầu tiên kể từ năm 1992 và sẽ chọn ra một tổng thống và Quốc hội mới.Về đối ngoại, Angola tích cực hội nhập với khu vực và thế giới. Hiện là thành viên củaLHQ,AU,Phong trào không liên kết,SADC,COMESA,ACP,PALOP,WTO,AfDB,IMF,WB... Angola theo đường lối không liên kết, thực dụng, ưu tiên quan hệ với các nước nóitiếng Bồ Đào Nha và các nước khu vực, đặc biệt làmiền Nam châu Phi, tranh thủ quan hệ vớiMỹ,Tây Âu,Nhật Bản,Trung Quốc, duy trì quan hệ với các nước bạn bè truyền thống.

Xem thêm:Danh sách các đảng chính trị tại Angola

Khu vực hành chính

[sửa |sửa mã nguồn]
Thủ đôLuanda, Angola.
Bản đồ Angola với các tỉnh được đánh số.
Bài chi tiết:Tỉnh AngolaCác thành phố Angola

Angola được chia thànhmười tám tỉnh (províncias) và 158 khu vực đô thị (municípios). Các tỉnh gồm:

1Bengo
2Benguela
3Bié
4Cabinda
5Cuando Cubango
6Cuanza Norte
7Cuanza Sul
8Cunene
9Huambo
10Huila
11Luanda
12Lunda Norte
13Lunda Sul
14Malanje
15Moxico
16Namibe
17Uíge
18Zaire

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]
Các mỏ dầu ngoài khơi Angola, tháng 6 năm 2010.
Bài chi tiết:Kinh tế Angola

Trong những năm gần đây, nềnkinh tế Angola đã trải qua một giai đoạn chuyển đổi, từ tình trạng lộn xộn do một phần tư thế kỷ chiến tranh sang một nềnkinh tế phát triển nhanh tạiChâu Phi và là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Năm2004,ngân hàng Eximbank củaTrung Quốc đã đồng ý cho Angola vay 2 tỷdollar. Khoản tiền này sẽ được dùng để tái xây dựng cơ sở hạ tầng trong nước, dù nó vẫn bị giới hạn do ảnh hưởng từQuỹ Tiền tệ Quốc tế trong nước.[2]Lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2005 tạiWayback Machine Tăng trưởng hầu như chỉ dựa vào sản xuấtdầu mỏ, đã vượt mức 1.4 tỷ thùng mỗi ngày vào cuối năm 2005 và dự tính sẽ đạt 2 tỷ thùng mỗi ngày năm2007. việc kiểm soát ngànhcông nghiệpdầu khí vẫn được tập trung vào taySonangol Group, mộtliên doanh có phần sở hữu của chính phủ Angola. Nền kinh tế tăng trưởng 18% năm 2005; và dự kiến sẽ đạt 26% năm 2006 và tiếp tục ở mức trên 10% trong thập kỷ này. An ninh có được nhờ những cuộc đàm phán hòa bình năm 2002 đã dẫn tới việc tái định cư cho 4 triệu người phải rời bỏ nhà cửa trước kia, dẫn tới tăng trưởng mạnh trong sản xuất nông nghiệp. Với nguồn thu tăng mạnh từ xuất khẩu dầu mỏ, chính phủ đã bắt đầu đưa ra các chương trình phát triển đầy tham vọng trong xây dựng đường sá và các cơ sở hạ tầng căn bản khác của quốc gia.

Năm 2008, là năm đánh dấu bước tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế Angola. Nhờ đợt giá dầu tăng kỷ lục, GDP đã đạt 95,95 tỷ USD, tăng 15,1% so với năm trước, tiếp tục đà tăng trưởng trên 15% trong giai đoạn 2004-2007. Sản xuất dầu và các ngành hỗ trợ đã đóng góp 85% tổng GDP của quốc gia này. Ngànhxây dựngnông nghiệp cũng đang từng bước tăng trưởng mạnh. Mặc dù vậy, hoạt động sản xuấtnông nghiệp vẫn không đủ cung cấp lương thực trong nước và Angola vẫn phải nhập khoảng một nửa lượng lương thực cho người dân. Năm 2003, ngân hàng trung ương đã thực hiện chương trình ổn định tỷ giá hối đoái, sử dụng các quỹ ngoại hối để mua nội tệ, giảm lạm phát. Tỉ lệlạm phát đã giảm đáng kể từ 325% năm 2000 xuống còn 13% năm 2008. Cuối năm 2006, Angola trở thành thành viênOPEC. Để có thể tận dụng nguồn tài nguyên giàu có hiện tại nhưvàng,kim cương,lâm sản,thủy sản và đặc biệt làdầu mỏ, chính phủ Angola cần tiếp tục cải cách, tăng cường minh bạch hóa và hạn chếtham nhũng. Tệ nạntham nhũng và những tác động tiêu cực của một lượng lớn các dòngngoại tệ chảy vào đang là những thách thức mà Angola phải đối mặt.

Công nghiệp chiếm 65,8% GDP của Angola, với nhiều ngành khác nhau, trong đó khai khoáng đóng vai trò quan trọng bậc nhất. Các sản phẩm công nghiệp chủ yếu của Angola làdầu mỏ,vàng,kim cương,sắt,phốt phất,bô-xít,uranium,ximăng, cáckim loại cơ bản, chế biến và thức ăn,thuốc lá,đường, dệt may, sửa chữa tàu... Trong đódầu lửa chiếm tới 90% giá trị xuất khẩu của Angola.

Nông nghiệp thu hút tới 85% lao động nhưng chỉ đóng góp khoảng 9,2% vào GDP của Angola, và hàng năm Angola vẫn phảinhập khẩu 1 nửa lượnglương thực phục vụ cho nhân dân. Angola sản xuất các loại nông sản chính nhưchuối,mía,cà phê,xi đan,ngô,bông,sắn,thuốc lá,rau,lâm sản,hải sản, câymã đề, vật nuôi...

Lĩnh vựcdịch vụ của Angola khá phát triển, chiếm 24,6%GDP.

Vềngoại thương, năm 2010 Angola xuất khẩu khoảng 51,65 tỷ USD (f.o.b) gồm các mặt hàng chính nhưdầu thô,kim cương, sản phẩm dầu tinh chế,khí ga,cà phê, xi đan,hải sản,sợi bông... Thị trường xuất khẩu chính của Angola gồmTrung Quốc,Mỹ,Pháp,Nam Phi.

Năm 2010, Angola nhập khẩu khoảng 18,1 tỷ USD (f.o.b) các mặt hàng như máy móc thiết bị,hoá chất, sản phẩm xăng dầu, thiết bị khoa học,hàng tiêu dùng,thực phẩm, đồ quân dụng...Thị trườngnhập khẩu của Angola gồm:Bồ Đào Nha,Trung Quốc,Mỹ,Nam Phi,Brasil,Nhật BảnPháp.

Angola có nhiều tài nguyên:dầu lửa,kim cương,vàng,bạc,đồng,cô-ban,thiếc,kẽm,sắt,gỗ,hải sản...Dầu lửa (sản lượng trên 2 triệu thùng/ngày, chiếm khoảng 85%GDP, 78% thu ngân sách);kim cương (trên 01 tỷ USD), là nguồn thu nhập ngoại tệ chủ yếu của nước này.gỗ cũng là hai nguồn lợi quan trọng của Angola.

- Cơ cấu kinh tế theo GDP:nông nghiệp: 9,2%;công nghiệp: 65,8%;dịch vụ: 24,6%.

- Mặt hàng xuất khẩu:dầu lửa,kim cương,bông,gỗ,cà phê, hải sản. Bạn hàng xuất khẩu:Mỹ (32,1%),Trung Quốc (32%),Tây Âu,Nam Phi,Đài Loan. Mặt hàng nhập khẩu: Máy móc thiết bị, xe cộ, phụ tùng,lương thực,thuốc men, hàng tiêu dùng, hàng quân dụng. Bạn hàng nhập khẩu:Bồ Đào Nha,Trung Quốc,Brasil,Nam Phi,Tây Âu,Mỹ,Hàn Quốc...Dự trữ ngoại tệvàng: 24,64 tỷUSD.

  • GDP (thực tế): 85,8 tỷ USD (2010)
  • GDP đầu người (thực tế): 3.400 USD (2010)
  • Tốc độ tăng trưởng GDP: 5,9% (2010)

Nhân khẩu học

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Nhân khẩu Angola

Dân số Angola được ước tính là 36.149.000 người (năm 2023).[11] Bao gồm các sắc tộc Ovimbundu chiếm 37%, Ambundu 25%, Bakongo 13%, và 25% là các dân tộc khác (bao gồm người Chokwe, Ovambo, Mbunda). Cũng như khoảng 2% là người mestiços (lai giữa châu Âu và châu Phi),người Trung Quốc chiếm 1,4% và 1% là người châu Âu.[12]

Theo ước tính, Angola là nơi có khoảng 12.100 người tị nạn và 2.900 người tị nạn vào cuối năm 2007. Có 11.400 người tị nạn từCộng hòa Dân chủ Congo đến trong những năm 1970.[cần dẫn nguồn] Tính đến năm 2008 có khoảng 400.000 công nhân nhập cư vào Angola, trong đó có 30.000người Bồ Đào Nha, và khoảng 259.000 người Trung Quốc.[13][14]

Từ năm 2003, có hơn 400.000 người di cư từ Congo đã bị trục xuất khỏi Angola.[15] Trước khi độc lập vào năm 1975, Angola đã có một cộng đồng khoảng 350.000 người Bồ Đào Nha;[16] hiện nay, có khoảng 200.000 người được đăng ký với cơ quan lãnh sự, và đang tăng lên do cuộc khủng hoảng nợ tại Bồ Đào Nha.[17] Người Trung Quốc đứng ở mức 258.920, chủ yếu gồm những người di cư tạm thời.[18]

Tổng tỷ suất sinh của Angola là 5,54 con trên một phụ nữ (ước tính 2012), đứng thứ 11 về tỷ suất trên thế giới.[cần dẫn nguồn]

Các ngôn ngữ tại Angola gồm ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau cộng vớitiếng Bồ Đào Nha do quốc gia này là một thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha. Các ngôn ngữ bản địa sử dụng nhiều nhất làtiếng Umbundu, Kimbundu, vàKikongo. Tiếng Bồ Đào Nha cũng được công nhận là ngôn ngữ chính thức của đất nước.

Angola lập quan hệ ngoại giao vớiViệt Nam ngày12 tháng 11 năm1975. Hiện nay,Việt Nam đã thiết lập đại sứ quán, trước chỉ có lãnh sự quán ở đây. Khoảng 200.000người Việt đang sinh sống ở Angola với nhiều nghề như bán quần áo may sẵn, làm ảnh và các chuyên gia giáo dục và y tế.

Tôn giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Một nhà thờ Kitô giáo ở Luanda
Bài chi tiết:Tôn giáo ở Angola

Angola là một quốc giaKitô giáo. Có khoảng 1.000 cộng đồng tôn giáo trong nước.[19]Công giáo La Mã chiếm khoảng một nửa dân số. Giáo phái Kitô giáo khác bao gồmBaptist, Methodist,Giáo hội Luther,Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm,Nhân chứng của Jehovah chiếm khoảng một phần tư dân số. Kể từ khi độc lập,Phong trào Ngũ Tuần,Tin Lành và các cộng đồng khác đã xuất hiện.

Ngoài ra, còn có thiểu số người Hồi giáo, bao gồm những người nhập cư từ các quốc gia châu Phi và các nước khác, những người không tạo thành một cộng đồng. Vài nhóm người Angola bản xứ – chủ yếu là trong các xã hội nông thôn xa xôi tuyên xưng tôn giáo truyền thống của châu Phi, nhưng niềm tin truyền thống tồn tại trong một phần đáng kể của những người đã theo đạo Chúa.

Kitô giáo

[sửa |sửa mã nguồn]

Kitô giáo đến Angola đầu năm 1491, do các nhà truyền giáo đến từ São Salvador. Năm 1878, các nhà truyền giáoTin Lành đầu tiên thuộc giáo pháiBaptists, đến Angola. Năm 1897, Hội Truyền giáo Tin Lành Angola được thành lập tạiCabinda, và Hội Truyền giáo Sứ mệnh Bắc năm 1925, trong Uíge.

Ở Angola, người Bakongo đa số là một trong những nhóm người có rất nhiềuKitô hữu, chỉ 1,5% dân số của sắc tộc này giữ các niềm tin bản địa.[cần dẫn nguồn]

Theo CIA World Factbook,Công giáo La Mã được thực hiện bởi 50% dân số, 25% là người Tin Lành, trong khi 25% thực hành tín ngưỡng bản địa.

Hồi giáo

[sửa |sửa mã nguồn]

Hồi giáo tại Angola là một tôn giáo thiểu số với 80,000-90,000 tín đồ, thành phần chủ yếu là người di cư từ Tây Phi và các gia đình có nguồn gốcLeban Hiệp hội phát triển Hồi giáo Angola là tổ chức cải đạo chính. Hồi giáo được đại diện bởi Hội đồng tối cao của người Hồi giáo ởLuanda.[20]

Văn hóa

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Văn hóa Angola

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Các danh sách

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^"Angola".Association of Religion Data Archives. 2015.Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2020.
  2. ^"Início".www.ine.gov.ao.Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020.
  3. ^Resultados Definitivos do Recenseamento Geral da População e da Habitação de Angola 2014 [Final Results of the General Census of Population and Housing of Angola 2014](PDF) (bằng tiếng Bồ Đào Nha), Instituto Nacional de Estatística, tháng 3 năm 2016,Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2016
  4. ^abcd"World Economic Outlook Database, October 2023 Edition. (Angola)".Quỹ Tiền tệ Quốc tế. ngày 10 tháng 10 năm 2023.Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2023.
  5. ^"IEC - World Plugs: List view by location" (bằng tiếng Anh).Ủy ban kỹ thuật điện quốc tế.Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2018.
  6. ^"Gini index".Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  7. ^"Human Development Report 2025"(PDF) (bằng tiếng Anh).Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. ngày 6 tháng 5 năm 2025.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
  8. ^abc"National Symbols".angolaembassy.org.rs. Đại sứ quán Angola ở Serbia. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2020.
  9. ^"The National Bird of Angola".Birds Angola. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2014.
  10. ^(bằng tiếng Anh)Life expectancy at birthLưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2018 tạiWayback Machine www.cia.gov (2009)
  11. ^Báo cáo về các quốc gia và vùng lãnh thổ
  12. ^See ethnic map and CIA – The World Factbook – Angola
  13. ^U.S. Relations With Angola, Bureau of Public Affairs, U.S. State Department.
  14. ^Angola: Cerca de 259.000 chineses vivem atualmente no paísLưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2013 tạiWayback Machine, SAPO.
  15. ^Calls for Angola to Investigate Abuse of Congolese Migrants, IpNews.
  16. ^Flight from Angola, Economist.
  17. ^José Eduardo dos Santos diz que trabalhadores portugueses são bem-vindos em Angola, Publico.
  18. ^Chinese 'gangsters' repatriated from Angola, Telegraph.
  19. ^See Fátima Viegas, Panorama das Religiões em Angola Independente (1975-2008), Luanda: Ministério da Cultura/Instituto Nacional para os Assuntos Religiosos, 2008
  20. ^Oyebade, Adebayo O. Culture And Customs of Angola, 2006. Pages 45-46.

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Le Billon, Philippe (2005). "Aid in the Midst of Plenty: Oil Wealth, Misery and Advocacy in Angola". Disasters 29(1): 1–25.
  • Birmingham, David (2006) Empire in Africa: Angola and its Neighbors, Athens/Ohio: Ohio University Press
  • Bösl, Anton (2008). Angola's Parliamentary Elections in 2008. A Country on its Way to One-Party-Democracy, KAS Auslandsinformationen 10/2008.http://www.kas.de/wf/de/33.15186/
  • Cilliers, Jackie and Christian Dietrich, Eds. (2000). Angola's War Economy: The Role of Oil and Diamonds.Pretoria, South Africa, Institute for Security Studies.
  • Global Witness (1999). A Crude Awakening, The Role of Oil and Banking Industries in Angola's Civil War and the Plundering of State Assets. London, UK, Global Witness.http://www.globalwitness.org/media_library_detail.php/93/en/a_crude_awakeningLưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2010 tạiWayback Machine
  • Heimer, Franz-Wilhelm, The Decolonization Conflict in Angola, Geneva: Institut d'Études Internationales et du Développement, 1979
  • Hodges, Tony (2001). Angola from Afro-Stalinism to Petro-Diamond Capitalism. Oxford: James Currey.
  • Hodges, Tony (2004). Angola: The Anatomy of an Oil State. Oxford, UK and Indianapolis, US, The Fridtjol Nansen Institute & The International African Institute in association with James Currey and Indiana University Press.
  • Holness, Marga.Apartheid's War Against Angolahttp://www.scribd.com/doc/29244604/Apartheid-s-War-Against-Angola-Marga-Holness
  • Human Rights Watch (2004). Some Transparency, No Accountability: The Use of Oil Revenues in Angola and Its Impact on Human Rights. New York, Human Rights Watch.http://www.hrw.org/reports/2004/angola0104/
  • Human Rights Watch (2005). Coming Home, Return and Reintegration in Angola. New York, Human Rights Watch.http://hrw.org/reports/2005/angola0305/
  • James, Walter (1992). A political history of the civil war in Angola, 1964–1990. New Brunswick, Transaction Publishers.
  • Kapuściński, Ryszard. Another Day of Life, Penguin, 1975.ISBN 978-0-14-118678-8. A Polish journalist's account of Portuguese withdrawal from Angola and the beginning of the civil war.
  • Kevlihan, R. (2003). "Sanctions and humanitarian concerns: Ireland and Angola, 2001-2". Irish Studies in International Affairs 14: 95–106.
  • Lari, A. (2004).Returning home to a normal life? The plight of displaced AngolansLưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2012 tạiWayback Machine. Pretoria, South Africa, Institute for Security Studies.
  • Lari, A. and R. Kevlihan (2004)."International Human Rights Protection in Situations of Conflict and Post-Conflict, A Case Study of Angola".Lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2012 tạiWayback Machine African Security Review 13(4): 29–41.
  • Le Billon, Philippe (2001). "Angola's Political Economy of War: The Role of Oil and Diamonds". African Affairs (100): 55–80.
  • MacQueen, NorrieAn Ill Wind? Rethinking the Angolan Crisis and the Portuguese Revolution, 1974–1976,Itinerario: European Journal of Overseas History, 26/2, 2000, pp. 22–44
  • Médecins Sans Frontières (2002).Angola: Sacrifice of a PeopleLưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2013 tạiWayback Machine. Luanda, Angola, MSF.
  • Mwakikagile, GodfreyNyerere and Africa: End of an Era, Third Edition, Pretoria, South Africa, 2006, on Angola in Chapter 11, "American Involvement in Angola and Southern Africa: Nyerere's Response", pp. 324–346, ISBN 978-0-ngày 92 tháng 1 năm 2534.
  • Pinto Escoval (2004): "Staatszerfall im südlichen Afrika. Das Beispiel Angola". Wissenschaftlicher Verlag Berlin
  • Much of the material in these articles comes from theCIA World Factbook 2000 and the 2003 U.S. Department of State website.
  • Le Billon, P. (2006).Fuelling War: Natural Resources and Armed Conflicts.Routledge.ISBN 978-0-415-37970-0.
  • Pearce, Justin (2004). "War, Peace and Diamonds in Angola: Popular perceptions of the diamond industry in the Lundas". African Security Review 13 (2), pp 51–64.http://www.iss.co.za/pubs/ASR/13No2/AW.pdfLưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2012 tạiWayback Machine
  • Porto, João Gomes (2003).Cabinda: Notes on a soon to be forgotten warLưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2010 tạiWayback Machine. Pretoria, South Africa, Institute for Security Studies.
  • Tvedten, Inge (1997). Angola, Struggle for Peace and Reconstruction. Boulder, Colorado, Westview Press.
  • Vines, Alex (1999). Angola Unravels: The Rise and Fall of the Lusaka Peace Process. New York and London, UK, Human Rights Watch.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Tìm hiểu thêm về
Angola
tạicác dự án liên quan
Tìm kiếm WiktionaryTừ điển từ Wiktionary
Tìm kiếm CommonsTập tin phương tiện từ Commons
Tìm kiếm WikinewsTin tức từ Wikinews
Tìm kiếm WikiquoteDanh ngôn từ Wikiquote
Tìm kiếm WikisourceVăn kiện từ Wikisource
Tìm kiếm WikibooksTủ sách giáo khoa từ Wikibooks
Tìm kiếm WikiversityTài nguyên học tập từ Wikiversity
Wikivoyage có cẩm nang du lịch vềAngola.
Chính phủ
Tin tức
Chính trị
Tổng quan
Chỉ dẫn
Khác
Liên kết đến các bài viết liên quan
Quốc gia có chủ quyền
Bộ phận của
quốc gia có chủ quyền
Lãnh thổ phụ thuộc
Chủ quyền không rõ
Bắc Phi

Thế kỷ 15

1415–1640Ceuta
1458–1550Alcácer Ceguer(El Qsar es Seghir)
1471–1550Arzila(Asilah)
1471–1662Tangier
1485–1550Mazagan(El Jadida)
1487–thế kỷ 16Ouadane
1488–1541Safim(Safi)
1489Graciosa

Thế kỷ 16

1505–1541Agadir
1506–1525Mogador(Essaouira)
1506–1525Aguz(Souira Guedima)
1506–1769Mazagan(El Jadida)
1513–1541Azamor(Azemmour)
1515–1541São João da Mamora(Mehdya)
1577–1589Arzila(Asilah)

Châu Phi hạ Sahara

Thế kỷ 15

1455–1633Anguim
1462–1975Cabo Verde
1470–1975São Tomé1
1471–1975Príncipe1
1474–1778Annobón
1478–1778Fernando Poo(Bioko)
1482–1637Elmina(São Jorge da Mina)
1482–1642Bờ Biển Vàng
1508–15472Madagascar3
1498–1540Quần đảo Mascarene

Thế kỷ 16

1500–1630Malindi
1501–1975Mozambique
1502–1659Saint Helena
1503–1698Zanzibar
1505–1512Quíloa(Kilwa)
1506–1511Socotra
1557–1578Accra
1575–1975Angola
1588–1974Cacheu4
1593–1698Mombassa(Mombasa)

Thế kỷ 17

1645–1888Ziguinchor
1680–1961São João Baptista de Ajudá, Bénin
1687–1974Bissau4

Thế kỷ 18

1728–1729Mombassa(Mombasa)
1753–1975São Tomé và Príncipe

Thế kỷ 19

1879–1974Guinea
1885–1974Congo thuộc Bồ Đào Nha5

Trung Đông [Vịnh Ba Tư]

Thế kỷ 16

1506–1615Bandar-Abbas
1507–1643Sohar
1515–1622Hormuz(Ormus)
1515–1648Quriyat
1515–?Qalhat
1515–1650Muscat
1515?–?Barka
1515–1633?Ras Al Khaimah
1521–1602Bahrain(Muharraq • Manama)
1521–1529?Qatif
1521?–1551?Đảo Tarut
1550–1551Qatif
1588–1648Matrah

Thế kỷ 17

1620–?Khor Fakkan
1621?–?As Sib
1621–1622Qeshm
1623–?Khasab
1623–?Libedia
1624–?Kalba
1624–?Madha
1624–1648Dibba Al-Hisn
1624?–?Bandar-e Kong

Tiểu lục địa Ấn Độ

Thế kỷ 15

1498–1545

Thế kỷ 16
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1500–1663Cochim(Kochi)
 • 1501–1663Cannanore(Kannur)
 • 1502–1658
 1659–1661
 • 1502–1661Pallipuram(Cochin de Cima)
 • 1507–1657Negapatam(Nagapatnam)
 • 1510–1961Goa
 • 1512–1525
 1750
 • 1518–1619Pulicat
 • 1521–1740Chaul

  (Portuguese India)
 • 1523–1662Mylapore
 • 1528–1666
 • 1531–1571Chaul
 • 1531–1571Chalé
 • 1534–1601Đảo Salsette
 • 1534–1661Bombay(Mumbai)
 • 1535Ponnani
 • 1535–1739Baçaím(Vasai-Virar)
 • 1536–1662Cranganore(Kodungallur)
 • 1540–1612Surat
 • 1548–1658Tuticorin(Thoothukudi)
 • 1559–1961Daman and Diu
 • 1568–1659Mangalore

  (Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha)
 • 1579–1632Hugli
 • 1598–1610Masulipatnam(Machilipatnam)
1518–1521Maldives
1518–1658Ceylon thuộc Bồ Đào Nha(Sri Lanka)
1558–1573Maldives

Thế kỷ 17
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1687–1749Mylapore

Thế kỷ 18
Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha

 • 1779–1954Dadra và Nagar Haveli

Đông Á và châu Đại Dương

Thế kỷ 16

1511–1641Malacca thuộc Bồ Đào Nha [Malaysia]
1512–1621Maluku [Indonesia]
 • 1522–1575 Ternate
 • 1576–1605 Ambon
 • 1578–1650 Tidore
1512–1665Makassar
1557–1999Ma Cao [Trung Quốc]
1580–1586Nagasaki [Nhật Bản]

Thế kỷ 17

1642–1975Timor thuộc Bồ Đào Nha(Đông Timor)1

Thế kỷ 19
Ma Cao thuộc Bồ Đào Nha

 • 1864–1999Coloane
 • 1851–1999Đãng Tể
 • 1890–1999Ilha Verde

Thế kỷ 20
Ma Cao thuộc Bồ Đào Nha

 • 1938–1941Lapa và Montanha(Hoành Cầm)

  • 1 1975 là năm Đông Timor tuyên bố độc lập cũng như là năm xảy racuộc xâm lược của Indonesia. Vào năm 2002, nền độc lập của Đông Timor được công nhận.
Bắc Mỹ & Bắc Đại Tây Dương

Thế kỷ 15 [các đảo Đại Tây Dương]

1420Madeira
1432Açores

Thế kỷ 16 [Canada]

1500–1579?Terra Nova(Newfoundland)
1500–1579?Labrador
1516–1579?Nova Scotia

Nam Mỹ & Antilles

Thế kỷ 16

1500–1822Brasil
 • 1534–1549 Capitania của Brasil
 • 1549–1572 Brasil
 • 1572–1578 Bahia
 • 1572–1578 Rio de Janeiro
 • 1578–1607 Brasil
 • 1621–1815 Brasil
1536–1620Barbados

Thế kỷ 17

1621–1751Maranhão
1680–1777Colonia del Sacramento

Thế kỷ 18

1751–1772Grão-Pará và Maranhão
1772–1775Grão-Pará và Rio Negro
1772–1775Maranhão và Piauí

Thế kỷ 19

1808–1822Cisplatina(Uruguay)
1809–1817Amapá
1822Thượng Peru(Bolivia)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Angola&oldid=74168998
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp