Người vợ đầu tiên của Amun là nữ thần chiến tranhWosret.
Vàovương triều thứ 11, Amun trở thành vị thần bảo hộ của thành phố cổ đạiThebes, thay thế thần chiến tranhMontu.[1][2] Trongtriều đại thứ 12, Amun được coi là Vua của các vị thần, vợ ông là nữ thầnMut thay cho Amunet. Amun và Mut có một người con, là thần Mặt trăngKhonsu, tạo nên "Bộ ba Theban".[2]
Cái tên của ông mang ý nghĩa là "tàng hình" hay "người ẩn thân". Người ta cho rằng ông tự tạo ra chính mình (nhưPtah) trước khi tạo ra thế giới. Khi sáp nhập với Ra, ông trở thành một vị thần vừa vô hình vừa hữu hình.[2]
Amun xuất hiện dưới nhiều hình hài khác nhau như ếch, rắn hổ mang, cá sấu hay khỉ. Ông có thể tự tái sinh mình bằng cách biến thành rắn và lột da. Nhưng phổ biến nhất là hình dáng một người đàn ông với cái đầu cừu hoặc một con cừu. Cuối cùng thì ông xuất hiện với hình ảnh một vị vua ngồi trên ngai vàng, đội vương miện với 2 chóp lông (tương tựMin).
Sau cuộc nổi loạn của Thebes chống lạiHyksos và với sự cai trị củaAhmose I, thần Amun nâng tầm quan trọng lên quy mô quốc gia, thể hiện việc kết hợp với thần Mặt trờiRa, trở thành thầnAmun-Ra.
Vào thời kỳTân vương quốc, Amun được nâng lên hàng đấng sáng tạo vũ trụ, Ai Cập lúc này theothuyết độc thần. Ông được coi là cha và người bảo vệ cho các pharaoh.Ahmose-Nefertari, người chị/em gái, đồng thời là vợ củaAhmose I, được phong tặng danh hiệu "Vợ của Amun". Danh hiệu này được dùng để gọi các bà chính cung của các pharaoh. Nữ hoàngHatshepsut cho rằng, mẹ của bà đã thụ thai với Amun (dưới hình hài củaThutmose I).[2]
Dưới thời trị vì củaAkhenaton, Amun bị thay thế bởi thần mặt trờiAten và cho xây dựng kinh đô mới tại Akhetaten (ngày nay làAmarna). Tuy nhiên, sự thờ cúng thần Aten lại bị dẹp bỏ dưới thời cai trị của pharaohTutankhamun, con ông, vàthuyết đa thần lại được phục hồi.
"Lễ hội Opet" kỷ niệm ngày cưới của Amun với nữ thầnMut. Vào ngày đó, bức tượng của thần từđền thờ Karnak được đưa xuống sông Nile, xuôi dòng vềđền Luxor
Ayad, Mariam F. (2009).God's Wife, God's Servant: The God's Wife of Amun (ca.740–525 BC). Routledge.ISBN978-0415411707.
Cruz-Uribe, Eugene (1994). "The Khonsu Cosmogony".Journal of the American Research Center in Egypt. Quyển 31.JSTOR40000676.
Guermeur, Ivan (2005).Les cultes d’Amon hors de Thèbes: Recherches de géographie religieuse (bằng tiếng Pháp). Brepols.ISBN90-71201-10-4.
Klotz, David (2012).Caesar in the City of Amun: Egyptian Temple Construction and Theology in Roman Thebes. Association Égyptologique Reine Élisabeth.ISBN978-2-503-54515-8.
Kuhlmann, Klaus P. (1988).Das Ammoneion. Archäologie, Geschichte und Kultpraxis des Orakels von Siwa (bằng tiếng Đức). Verlag Phillip von Zabern in Wissenschaftliche Buchgesellschaft.ISBN978-3805308199.
Otto, Eberhard (1968).Egyptian art and the cults of Osiris and Amon. Thames & Hudson.
Roucheleau, Caroline Michelle (2008).Amun temples in Nubia: a typological study of New Kingdom, Napatan and Meroitic temples. Archaeopress.ISBN9781407303376.
Thiers, Christophe, biên tập (2009).Documents de théologies thébaines tardives. Université Paul-Valéry.
Zandee, Jan (1948).De Hymnen aan Amon van papyrus Leiden I. 350 (bằng tiếng Hà Lan). E.J. Brill.
Zandee, Jan (1992).Der Amunhymnus des Papyrus Leiden I 344,Verso (bằng tiếng Đức). Rijksmuseum van Oudheden.ISBN90-71201-10-4.