Bà sinh tạiUppsala, là con trưởng trong một gia đình khá giả. Bà học ngànhtâm lý học vàxã hội học tạiĐại học Uppsala. Bà được công chúng biết đến từ thập niên 1930, và được coi là người có công lớn trong việc thành lậpnhà nước phúc lợi Thụy Điển.
Bà viết chung vớiKarl Gunnar Myrdal quyểnKhủng hoảng trong vấn đề dân số (tiếng Thụy Điển:Kris i befolkningsfrågan) (1934). Tiền đề căn bản củaKhủng hoảng trong vấn đề dân số là tìm ra dạng cải cách xã hội cần thiết cho phép quyền tự do cá nhân (nhất là của phụ nữ) trong khi cũng thúc đẩy sự sinh đẻ và khuyến khích người Thụy Điển sinh con. Trong khi báo trước nhiều cải cách xã hội bao quát chung chung thuận lợi cho Thụy Điển, sách cũng kết hợp một sốzeitgeist (tinh thần thời đại) của thập kỷ 1930, trong việc thúc đẩy lý tưởng ưu sinh (eugenics) và các chương trìnhtriệt sản cưỡng bách.
Cùng với kiến trúc sưSven Markelius, bà đã thiết kế "Nhà tập thể hợp tác" củaStockholm (cooperative Collective House) năm 1937 với hướng nhìn về việc phát triển nhiều tự do trong gia đình hơn cho các phụ nữ.
Là một đảng viên lỗi lạc củaĐảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển, cuối thập niên 1940 bà đã tham gia vào các vấn đề quốc tế cùng vớiLiên Hợp Quốc, được bổ nhiệm đứng đầu ban chính sách phúc lợi của Liên Hợp Quốc năm 1949. Từ năm 1950 tới 1955 bà làm trưởng ban khoa học xã hội củaUNESCO—người phụ nữ đầu tiên giữ chức vụ cao như vậy trong một cơ quan Liên Hợp Quốc.
Năm 1962 bà được bầu vàoNghị viện Thụy Điển và cùng năm, bà được phái đi làm phát ngôn viên của phái đoàn Thụy Điển tạiHội nghị giải trừ quân bị của Liên Hợp Quốc ởGenève, một vai trò mà bà đảm nhiệm tới năm 1973.
Năm 1966 bà cũng được bổ nhiệm chứcquốc vụ khanh, đảm nhiệm vấn đề giải trừ quân bị choBộ Ngoại giao Thụy Điển tới năm 1973.