Axit aspartic, cùng vớiaxit glutamic, được xếp là loại amino acid có tính axit vớipKa bằng 3,9. Axit aspartic khá phổ biến trong các quá trình sinh tổng hợp. Cũng như tất cả các amino acid khác, sự hiện diện của ion H+ của axit phụ thuộc vào môi trường hóa học xung quanh và pH của dung dịch.
Axit aspartic được Plisson phát hiện lần đầu vào năm 1827, dưới dạng dẫn xuất của nó là asparagin (được phát hiện vào năm 1806), khi đun sôi chiết xuất từ nước épmăng tây với một base.[4]
Cụm từ "axit aspartic" chỉ một tronghai dạng của nó hoặc chỉ hỗn hợp của cả hai.[3] Trong hai dạng này, chỉ có đồng phân "L-axit aspartic" có nhiều vai trò trong tự nhiên, còn đồng phân "D-axit aspartic" thì có vai trò sinh học ít hơn. Quá trình tổng hợp nhờ enzym sẽ cho một trong hai dạng, còn quá trình tổng hợp trong phòng thí nghiệm sẽ cho một hỗn hợp cả hai dạng, "DL-axit aspartic," được gọi là hỗn hợp racemic.
Axit aspartic thì không thiết yếu ở các loàiđộng vật có vú, do nó được tổng hợp từoxaloacetat nhờphản ứng chuyển amin. Nó cũng có thể được tạo ra từornithin vàcitrullin trongchu trình ure. Ở các loài thực vật vàvi sinh vật, axit aspartic là tiền chất của nhiều amino acid, bao gồm bốn amino acid thiết yếu ở người làmethionin,threonin,isoleucin, vàlysin. Quá trình chuyển đổi từ axit aspartic thành các amino acid trên bắt đầu bởi sự khử axit aspartic thành"semialdehyd" tương ứng, O2CCH(NH2)CH2CHO.[5]Asparagin là dẫn xuất của axit aspartic được tạo nên từ phản ứng amid hóa:
Aspartic là chiếm khoảng 40% trongaspartam, một chất gây ra chứngđau đầu. Những cơn đau đầu có thể xảy ra ở những bệnh nhân có hàm lượng aspartic nhiều ở dạng aspartame.[6]
Axit aspartic không phải là mộtamino acid thiết yếu, nghĩa là nó có thể được tổng hợp trong cơ thể qua các chất trung gian chuyển hóa trung tâm. Axit aspartic được tìm thấy trong:
Hỗn hợpracemic của axit aspartic có thể được tổng hợp từ dietyl natri phthalimidomalonat,Na+(C6H4(CO)2NC-(CO2Et)2).[9]
Nhược điểm lớn của cách làm trên là hỗn hợp thu được gồn cả hai đồng phân của axit aspartic, trong khi cơ thể chỉ sử dụng được đồng phân L. Ngày nay nhờcông nghệ sinh học người ta đã có thể dùng các enzym cố định để tạo ra chỉ một trong hai loại đồng phân dựa trên tính chất quang học của chúng Axit aspartic được tổng hợp từ ammoni fumarate và aspartase từE.coli,E.coli thường bẻ gãy axit aspartic để làm nguồn nitơ nhưng khi lượng ammoni fumarate quá lớn, phản ứng ngược lại sẽ xảy ra, cho phép tổng được axit aspartic với năng suất cao, từ 98.7 mM đến 1 M.
^R.H.A. Plimmer (1912) [1908]. R.H.A. Plimmer & F.G. Hopkins (biên tập).The chemical composition of the proteins. Monographs on biochemistry. Quyển Part I. Analysis (ấn bản thứ 2). London: Longmans, Green and Co. tr. 112. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.