Điện ảnh là mộtloại hình nghệ thuật tổng hợp thể hiện bằnghình ảnh kết hợpâm thanh, đôi khi là một số hình thức kích thích giác quan khác; được lưu trữ trên một số dạngthiết bị ghi hình để phổ biến tới công chúng qua các phương tiện kỹ thuật khác nhau:chiếu rạp,truyền hình,web / stream, video, băng, đĩa, máy chiếu...[1]
Trongtiếng Việt, điện ảnh đôi khi còn được gọi làXi-nê, xuất phát từ"cinéma" (điện ảnh trongtiếng Pháp) vốn là từ rút gọn của"cinématographe". "Cinématographe" cũng là tên chiếc máy ghi hình đầu tiên do Léon Bouly tạo ra.
Việt Nam có một thời gian dài ảnh hưởng của văn hóa Pháp, nên đã vay mượn khá nhiều từ ngữ, trong đó có từ"film" trở thành"phim". TheoWikipedia Pháp, film là thành phẩm hình ảnh động hoặc âm thanh của điện ảnh, họ chia thể loại và Việt Nam sử dụng theo như: Film d'amour - Phim tình cảm, Film documentaire - Phim tài liệu ...v.v Vốn từ vựng tiếng Việt không đủ cho các định nghĩa mới nên thường sử dụng thêm từphim kèm với định dạng và thể loại điện ảnh trong khi tiếng Anh không cần đến vì được phân biệt rõ ràng theo tên gọi như: phim truyền hình - tv-serie;phim ngắn tập - minniserie;phim dài tập -serial; phim tài liệu - docmentary, phim điện ảnh - movie (Phim và điện ảnh là một)[2]...
Trước đây trongtiếng Việt, dựa vào hình thức phổ biến hay phát hành mà cácphim điện ảnh được gọi là "phim nhựa" hoặc "phim chiếu bóng", để phân biệt vớiphim video; nhưng theo sự phát triển của kỹ thuật thì cách gọi này không còn phù hợp nữa, vì một bộ phim có thể được chiếu trên nhiều thiết bị khác nhau.
Hiện nay,Phim điện ảnh là những bộ phim được sản xuất để chiếu chủ yếu tại các rạp phim, với công nghệ mới các bộ phim có thể được ghi lại bằng phim phim nhựa hoặc thiết bị kỹ thuật số. Phim điện ảnh được chia theo nhiều thể loại, sau thời gian phát hành ngoài rạp, phim sẽ được phổ biến dưới nhiều hình thức: truyền hình, dịch vụ trực tuyến hay các sản phẩm vật lý : VHS, DVD, Bluray...
Điện ảnh ra đời nhờ rất nhiều những tìm tòi và phát triển kỹ thuật vào nửa cuốithế kỷ 19 tập trung vào việc ghi lại hình ảnh chuyển động, đó là những phát minh củaLouis Le Prince,Eadweard James Muybridge,Étienne-Jules Marey hayThomas Edison. Tuy vậy, các nhà sử học thường coi ngày khai sinh ra nghệ thuật điện ảnh là ngày28 tháng 12 năm1895, khi buổi chiếu phim chuyển động và có thu tiền đầu tiên được anh emAuguste và Louis Lumière tổ chức tạiSalon Indien (Phòng Ấn Độ) nằm dưới tầng hầm của quán cà phêGrand Café ởParis,Pháp. Những khách vào xem buổi chiếu này phải trả 1franc để xem chừng 10 đoạn phim ngắn dài 1 phút. Đoạn phim đầu tiên trong số này được Anh em Lumière (lumière trong tiếng Pháp có nghĩa làánh sáng) quay vào khoảng tháng 8 năm1894 tại tầng trệt căn hộ của họ ở đườngSaint Victor (Lyon), nay đã được đổi tên thành đườngPremier Film (Bộ phim đầu tiên) để ghi danh sự kiện. Được biết tới nhiều nhất trong buổi chiếu này là đoạn phimLa Sortie de l'usine Lumière à Lyon (Buổi tan ca của nhà máy Lumière ở Lyon), được quay vào mùa hè năm1895, ghi lại cảnh các công nhân rời khỏi nhà máy của nhà Lumière ở Lyon. Do đây chỉ là những đoạn phim ghi lại cảnh sinh hoạt thường ngày nên theo tiêu chuẩn ngày nay thì nó gần với các bộphim tài liệu hơn làphim điện ảnh.
Sự ra đời của "cinématographe" nhanh chóng được công chúng đón nhận nhiệt tình. Ngay lập tức điện ảnh được thương mại hóa vàcông nghiệp điện ảnh ra đời. Mặc dù từ ngày11 tháng 1 năm1888,Louis Le Prince đã đăng ký bằng sáng chế về chiếc máy quay hoàn chỉnh có thể ghi lại những hình ảnh chuyển động, nhưng trong cuộc chiến thương mại đầu tiên liên quan đến điện ảnh,Thomas Edison mới là người chiến thắng và hầu như việc sản xuất máy quay đều nằm dưới nhãn hiệuTrust Edison cho đến tận năm1918.
Không chỉ dừng lại ở việc ghi lại chính xác các hình ảnh thực tế, các nhà làm phim bắt đầu tạo ra cáckĩ xảo điện ảnh cho các bộ phim của mình, một trong những kĩ xảo đáng nhớ nhất là hình ảnhMặt Trăng có khuôn mặt người trong bộ phimLe Voyage dans la lune (Cuộc du hành lên Mặt Trăng) doGeorges Méliès thực hiện năm1902.
Vàothập niên 1910, đạo diễnHoa KỳD.W.Griffith đã đưa điện ảnh tiến thêm một bước mới khi chuẩn hóa các thuật ngữ điện ảnh và các công đoạn làm phim cũng như cho ra đời bộ phim mang tính cách mạng về kỹ thuật dàn dựng và kịch bảnThe Birth of a Nation.
Những năm 1920 là giai đoạn hoạt động tích cực của các nhà điện ảnh thuộctrường phái Tiên phong (avant-garde), những người khai sinh rađiện ảnh thể nghiệm (cinéma expérimental) nhưFernand Léger,Man Ray,Germaine Dulac,Walter Ruttmann và nhiều người khác. Cho đến cuốithập niên 1920, kỹ thuật thu âm đồng bộ chưa ra đời, vì vậy các bộ phim công chiếu đều không có âm thanh mà phải sử dụng các nghệ sĩ tạo âm thanh và tiếng động ngay tại nơi công chiếu. Những bộ phim như vậy được gọi làphim câm, để dẫn dắt câu chuyện hoặc miêu tả các đoạn hội thoại người ta phải sử dụng các bảng chữ (tiếng Anh:intertitle) xen vào giữa các cảnh phim. Để hiện thực hóa việc đồng bộ âm thanh và hình ảnh cho các bộ phim, người ta đã cố gắng áp dụng các kĩ thuật khác nhau, và bộ phim hoàn chỉnh "có tiếng" đầu tiên đã ra đời năm1927, đó là bộ phimThe Jazz Singer.
Thập niên 1930 được đánh dấu bằng các bộphim tuyên truyền củaĐức Quốc xã trong đó phải kể tớiOlympia (phim 1938) được đạo diễnLeni Riefenstahl thực hiện để quảng bá choThế vận hội mùa hè 1936 tổ chức tạiBerlin cũng như tuyên truyền hình ảnh của một nước Đức hùng mạnh. Bộ phim này đã mang đến những bước đột phá mới cho nghệ thuật điện ảnh như các góc quay lạ, quay cận cảnh và dựng phim. Cũng chính Leni Riefenstahl vào năm1936 đã thực hiện bộ phim nổi tiếngTriumph des Willens, một tác phẩm nhằm gây dựng hình ảnh choAdolf Hitler và các lãnh đạo Đức Quốc xã,Triumph des Willens được coi là bộ phim tuyên truyền xuất sắc nhất trong lịch sử điện ảnh.
Năm1965, với sự ra đời của loại máy quay phổ thôngsuper 8 do hãngKodak sản xuất, nền điện ảnh của các nghệ sĩ nghiệp dư ra đời. Những bộ phim được thực hiện nghiệp dư này được gọi là các bộ phim loại Z (Z movie, bắt nguồn từ tên gọi các bộ phim loại B –B movie kinh phí thấp của Hollywood), phim loại Z cũng được các đạo diễn nổi tiếng sử dụng như một cách thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình, trong số các đạo diễn đó có những người là trụ cột của điện ảnh Mỹ nhưEd Wood hayRoger Corman (người đã phát hiện và đưaFrancis Ford Coppola,Martin Scorsese hayPeter Jackson trở thành các đạo diễn nổi tiếng).
Bước tiến mới nhất của điện ảnh vào cuốithế kỷ 20 là sự áp dụngkỹ thuật số vào điện ảnh, từ việc sử dụng các máy quay kỹ thuật số thay cho các máy quay phim truyền thống, cho đến việc dàn dựng các kỹ xảo điện ảnh và âm thanh trênmáy tính. Việc lưu trữ phim cũng chuyển sang sử dụngổ cứngmáy tính thay cho các cuộn phim như trước kia. Phim có hình ảnh lập thể 3D cũng bắt đầu xuất hiện.
Có rất nhiều cơ sở để phân loại phim, đơn giản như phân loại theo quốc gia sản xuất, theo đạo diễn, theo diễn viên, tiêu đề,... Nhưng thông thường người ta phân loại theothể loại phim,dòng phim, độ dài và kỹ thuật thực hiện.
Đây là cách phân loại ban đầu của các bộ phim, khi đó phim được phân loại theochiều dài của cuộn phim được trình chiếu. Có thể phân biệt các bộ phim thành:
Phim ngắn: Phim có độ dài từ 30 phút → 60phút hay tương đương 1600métphim 35 mm ở tốc độ 24 hình trên giây.
Phim dài: Phim có độ dài nhiều hơn 60 phút. Độ dài thông thường của các phim dài là 90 phút, nhưng cũng có bộ phim dài tới 120 phút, 140 phút, 150 phút thậm chí là 160 phút và còn dài hơn nữa. Một số bộ phim nổi tiếng có thời gian rất dài nhưCuốn theo chiều gió (Gone with the wind, dài 222 phút) hayChúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở về của nhà vua (The Lord of the Rings: The Return of the King, dài 200 phút),Avengers: Hồi Kết (Avengers: Endgame dài 182 phút),King Kong (phim 2005) (King Kong, dài 188 phút).
LoạiP (Phổ biến): Phim được phép phổ biến đến người xem ở mọi độ tuổi.
LoạiT13 (trên 13 tuổi): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 13 tuổi trở lên.
LoạiT16 (trên 16 tuổi): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 16 tuổi trở lên.
LoạiT18 (trên 18 tuổi): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 18 tuổi trở lên.
LoạiK: Phim được phổ biến đến người xem dưới 13 tuổi với điều kiện xem cùng cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Phân loại phim theo Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ (MPAA)
đây là bảng phân loại phổ biến và được biết nhiều nhất trên thế giới vì phạm vi ảnh hưởng của các bộ phim Hollywood.
NhãnG (General Audiences): Phim cho phép phổ biến rộng rãi
NhãnPG (Parental Guidance suggested): Có thể không thích hợp với trẻ em
NhãnPG-13 (Parents Strongly Cautioned): Không nên dành cho trẻ dưới 13 tuổi
NhãnR (Restricted): Dưới 17 tuổi phải có cha mẹ hoặc người lớn đi cùng
NhãnNC-17: Không dành cho người vị thành niên
Ngoài ra còn cóNR (Not Rated) vàUR (Unrated) áp dụng cho các bộ phim không qua kiểm duyệt và đánh của Hiệp hội. Đây thường là các phiên bản đặc biệt chưa chỉnh sửa, bản mở rộng hoặc được biên tập theo ý đồ riêng của đạo diễn.
Các trailer cũng được phân loại tương tự, với những phim được kiểm duyệt, phân loại thì trên trailer sẽ có bảngThis Film Is Not Yet Rated
Việc thực hiện một bộ phim tùy thuộc rất nhiều vào thể loại phim, dòng phim, ý đồ nghệ thuật hoặc thương mại của biên kịch, đạo diễn và nhà sản xuất. Tuy vậy quá trình làm phim cũng có thể chia làm năm công đoạn chính:
Phát triển kịch bản: Bao gồm xây dựng cốt truyện, lời thoại và phân cảnh
Tiền sản xuất: Lựa chọn diễn viên (casting), xây dựng bối cảnh, trường quay, đạo cụ, phục trang
Sản xuất: Quay thử, quay chính thức, thu âm đồng bộ
Hậu kỳ: dựng phim, âm thanh, thực hiện các kỹ xảo trên phim và bằng máy vi tính, chiếu thử
Phân phối: Quảng cáo, phân phối phim cho các rạp, thêm phụ đề, phát hành DVD và chiếu trên truyền hình, phát hành các sản phẩm phụ (áo phông, áp phích, trò chơi điện tử chủ đề,...)
Các công đoạn kể trên được thực hiện bởi một đội ngũ làm phim bao gồm các vị trí chính sau:
Phê bình điện ảnh là quá trình phân tích và đánh giá chất lượng các sản phẩm điện ảnh. Công việc này thường do các nhà phê bình phim chuyên nghiệp hoặc cácnhà báo chuyên về điện ảnh thực hiện. Các bài phê bình có thể được giới thiệu trênbáo,tạp chí hoặc cácphương tiện truyền thông khác sau khi các nhà phê bình và nhà báo xem buổi chiếu thử. Ý kiến phê bình các bộ phim mới sẽ có ảnh hưởng lớn tới thị hiếu của công chúng. Thông thường các bộ phim được giới phê bình ca ngợi sẽ thu hút nhiều khán giả hoặc ngược lại. Tuy nhiên điều này không phải bao giờ cũng đúng, đôi khi các bài phê bình lại có tác dụng ngược lại, người xem có thể lại hào hứng mua vé các bộ phim bị giới phê bình chỉ trích kịch liệt hoặc hờ hững với những bộ phim nghệ thuật được giới phê bình ca ngợi.
Giải thưởng điện ảnh được trao bởi các hội nghề nghiệp liên quan đến điện ảnh (thường là Viện hàn lâm nghệ thuật điện ảnh hoặc Hội Điện ảnh) bằng việc bỏ phiếu kín để chọn ra những người xứng đáng. Giải thưởng điện ảnh nổi tiếng nhất thế giới có lẽ làGiải Oscar được trao bởiViện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh (Academy of Motion Picture Arts and Sciences, viết tắt làAMPAS) (Hoa Kỳ). Ngoài ra hầu như các nền điện ảnh phát triển đều có giải thưởng điện ảnh khá uy tín, ví dụ ở Pháp làGiải César, ởHồng Kông làGiải thưởng Điện ảnh Hồng Kông.
Bên cạnh các giải thưởng điện ảnh, một số tổ chức còn đứng ra mở các liên hoan phim, trong đó các bộ phim mới được chiếu giới thiệu và một ban giám khảo được lập ra để đánh giá các tác phẩm dự giải. Trong số các liên hoan phim phải kể tớiLiên hoan phim Cannes (Pháp),Liên hoan phim Berlin (Đức),Liên hoan phim Venezia (Ý) vàLiên hoan phim Sundance (Mỹ).
Ngay sau khi ra đời, việc thực hiện và trình chiếu các bộ phim đã trở thành một lĩnh vực giải trí mang lại rất nhiều lợi nhuận. Anh em nhà Lumière khi khai sinh ra nền điện ảnh hiện đại cũng đã đánh dấu sự ra đời của ngành công nghiệp điện ảnh khi tiến hành thu tiền khán giả vào xem những bộ phim đầu tiên của hai người ởGrand Café. Các hãng phim cũng được thành lập ngày một nhiều còn các diễn viên điện ảnh thì nhanh chóng trở thành các ngôi sao với rất nhiều người hâm mộ. Năm1917, vua hềCharlie Chaplin đã được ký hợp đồng với mức lương kỷ lục thời đó là 1 triệuUSD một năm.
Hiện nay cũng giống như nhiều lĩnh vực khác,Hoa Kỳ là quốc gia có nền công nghiệp điện ảnh phát triển nhất với kinh đô của nó ởHollywood thuộc tiểu bangCalifornia. Một bộ phim Hollywood có thể được đầu tư tới 200 triệuUSD để rồi thu về gần 2 tỷ USD nhưTitanic.[3] Tuy nhiên khu vực sản xuất nhiều phim nhất phải kể tớiMumbai, kinh đôBollywood củaẤn Độ.[4]
Ở các thị trường phim lớn khác, các hãng phim thường có quy mô nhỏ hớn và các bộ phim vì thế cũng có kinh phí đầu tư thấp hơn nhiều so với các tác phẩm của Hollywood. ỞPháp có thể kể tớiCanal+,Pathé hoặcGaumont (hãng phim lâu đời nhất thế giới còn hoạt động[5]). Còn hai hãng lớn ởHồng Kông làThiệu Thị vàGia Hòa. ỞẤn Độ cũng có một nền công nghiệp điện ảnh phát triển với tên gọiBollywood.
Trong giai đoạn đầu, sau khi được sản xuất, các bộ phim thường được chiếu trong các rạp hát (để tiện cho việc bố trí dàn nhạc công tạo âm thanh cho phim). Rạp chiếu phim thực sự đầu tien được xây dựng tạiPittsburgh thuộc tiểu bangPennsylvania,Hoa Kỳ năm1905.[6] Chỉ vài năm sau đó, hàng nghìn rạp chiếu tương tự được ra đời từ việc cải tạo lại các rạp hát có sẵn.[7] Những rạp loại này tại Mỹ thường được gọi là mộtnickelodeon, xuất phát từ việc vé vào xem thường có giá 1nickel (tương đương 5 xu).
Hiện nay khi mua vé vào rạp khán giả thường chỉ xem một phim, nhưng trướcthập niên 1970, thường một buổi chiếu bao gồm hai phim, một phim chất lượng và kinh phí cao (phim loại A –A movie) và một phim chất lượng thấp hơn (phim loại B –B movie). Thay thế cho các phim loại B, hiện nay người ta sẽ chiếu các đoạn quảng cáo ngắn hoặc các đoạn giới thiệu (trailer) về các phim sắp phát hành.
Từ sauChiến tranh thế giới thứ hai, các rạp chiếu phải cạnh tranh quyết liệt vớitruyền hình vốn dễ dàng đưa các bộ phim đến số lượng công chúng lớn hơn nhiều. Sự phát triển các phương tiện lưu trữ thông tin như băng từVHS,CD vàDVD cũng làm nhiều người không đến rạp để thưởng thức phim mới mà họ mua hoặc thuê các CD, DVD phim này về nhà. Mới đây nhất,Internet đã trở thành công cụ trao đổi phim ảnh (cả hợp pháp và bất hợp pháp) cực kì tiện lợi khiến cho các rạp chiếu phim ngày càng gặp nhiều đối thủ trên lĩnh vực thu hút khán giả. Theo một nghiên cứu năm2000 của ngân hàngABN AMRO thì chỉ có 26% thu nhập của các hãng phim Hollywood đến từ tiền bán vé xem ở rạp, 46% đến từ việc bán và cho thuê băng đĩa và 28% đến từtruyền hình.[8]
Basten, Fred E. (writer); Peter Jones (director and writer); Angela Lansbury (narrator) (1998).Glorious Technicolor (Documentary). Turner Classic Movies.Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2007.
Schultz, John (writer and director); James Earl Jones (narrator) (1995).The Making of 'Jurassic Park' (Documentary). Amblin Entertainment.Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2007.