Bài này viết về nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức hiện tại, đã được thống nhất từ năm 1990. Đối với chế độ sử dụng cùng quốc hiệu quản lý phần lãnh thổ phía Tây nước Đức trước thống nhất, xemTây Đức.
Đức (tiếng Đức:Deutschland,phát âm[ˈdɔjtʃlant]), tên gọi chính thức làCộng hòa Liên bang Đức (tiếng Đức:Bundesrepublik Deutschland,ngheⓘ),[e][11] là một quốc gia ởTrung Âu, bao gồm 16bang. Đức có tổng diện tích là 357.022 km² và khí hậu theo mùa, phần lớn là ôn hòa. Dân số Đức vào khoảng hơn 83 triệu,[12] là quốc gia đông dân thứ hai ở châu Âu sauNga. Đức là quốc gia có số lượng người nhập cư cao thứ hai trên thế giới sauHoa Kỳ (2014).[13] Thủ đô và vùng đô thị lớn nhất của Đức làBerlin. Các thành phố lớn khác gồm cóHamburg,München,Köln,Frankfurt,Stuttgart vàDüsseldorf.
Tên gọi của nước Đức trongtiếng Việt bắt nguồn từtiếng Trung. Trong tiếng Trung, nước Đức được gọi là 德意志 (âm Hán Việt:Đức Ý Chí), gọi tắt là 德國Đức quốc. Cũng giống như Anh, Pháp, Mỹ, và những nước khác, người Việt hay bỏ chữ "Quốc" đi, chỉ còn gọi là "Đức".[cần dẫn nguồn]
Thuật ngữDeutschland trong tiếng Đức, ban đầu làdiutisciu land ("các vùngngười Đức") có nguồn gốc từdeutsch, bắt nguồn từ tiếng Thượng Đức Cổdiutisc "dân", ban đầu được sử dụng để phân biệt ngôn ngữ của thường dân khỏi tiếng Latinh và các hậu duệ của nó.[17] Đến lượt mình, nó lại bắt nguồn từ tiếng German nguyên thủy *þiudiskaz "dân", từ *þeudō, bắt nguồn từtiếng Ấn-Âu nguyên thủy *tewtéh₂- "người", từ "Teuton" cũng bắt nguồn từ đó.[18] TừGermany trong tiếng Anh bắt nguồn từGermania trong tiếng Latinh, là từ được sử dụng sau khiJulius Caesar chọn nó để chỉ các dân tộc phía đôngsông Rhein.[19]
Việc phát hiệnDi cốt Mauer cho thấyngười cổ đại đã hiện diện lần đầu tại Đức từ ít nhất 600.000 năm trước.[20] Người ta cũng phát hiện di cốt của những người phi hiện đại đầu tiên sau đó (người Neanderthal) tạithung lũng Neandertal.[21] Các hóa thạch Neanderthal 1 được cho là có niên đại 40.000 năm tuổi. Bằng chứng về người hiện đại có niên đại tương tự được phát hiện trong các hang tại dãy Schwäbische Alb. Trong những vật được tìm thấy có các sáo bằng xương chim và ngà voi ma mút 42.000 năm tuổi là các nhạc cụ cổ nhất từng phát hiện được,[22] Tượng người sư tử thời đại băng hà 40.000 năm tuổi là nghệ thuật tạo hình không thể tranh luận cổ nhất từng phát hiện được,[23] vàTượng Venus ở Hohle Fels 35.000 năm tuổi là nghệ thuật tạo hình con người không thể tranh luận cổ nhất từng phát hiện được.[24] Đĩa bầu trờiNebra – một món tạo tác bằngđồng điếu được tạo ra trong thời đại đồ đồng châu Âu được cho là thuộc về một địa điểm gần Nebra,Sachsen-Anhalt, Đức.[25]
Các bộ lạc German được cho là có niên đại từ Thời đại đồ đồng Bắc Âu hoặc Thời đại đồ sắt tiền La Mã.[26] Từ miền nam Scandinavia và miền bắc Đức ngày nay, họ bành trướng về phía nam, đông và tây, tiếp xúc với các bộ lạcCelt tạiGallia, cũng như với các bộ lạcIran, Balt,Slav tại Trung vàĐông Âu.[27] Dưới thờiAugustus,La Mã (Roma) bắt đầu xâm chiếm khu vựcGermania (tức khu vực có cư dân chủ yếu là người German). Năm 9 CN, ba quân đoàn La Mã dưới quyềnVarusthất bại trước thủ lĩnhArminius của bộ lạc Cherusker.[28] Đến năm 100 CN, khiTacitus viết sáchGermania, các bộ lạc German đã định cư dọcsông Rhine vàsông Danube, chiếm hầu hết lãnh thổ Đức ngày nay; tuy nhiênÁo,Baden-Württemberg, miền namBayern, miền namHesse và miền tâyRheinland thuộc các tỉnh củaLa Mã.[29][30][31] Khoảng năm 260, các dân tộc German đột nhập vào các khu vực do La Mã kiểm soát.[32] Sau cuộc xâm chiếm củangười Hung vào năm 375, và La Mã suy tàn từ năm 395, các bộ lạc German di chuyển xa hơn về phía tây-nam. Một vài bộ lạc lớn được hình thành đồng thời tại khu vực nay là Đức và thay thế hoặc hấp thu các bộ lạc German nhỏ hơn. Các khu vực rộng lớn mang tên gọi làAustrasia,Neustria, và Aquitaine vào giai đoạnMerowinger bị người Frank chinh phục, họ lập raVương quốc Frank, và bành trướng hơn nữa về phía đông nhằm khuất phục Sachsen và Bayern. Các khu vực nay là phần đông của Đức là nơi các bộ lạc Tây Slav cư trú: Sorb, Veleti và liên minh Obotrit.[29]
Năm 800, Quốc vương FrankCharlemagne đăng quang hoàng đế và lập ra Đế quốc Karoling, đế quốc này tồn tại đến năm 843 thì bị những người thừa kế của ôngphân chia.[33] Sau khi Vương triều Frank tan vỡ, lịch sử Đức trong vòng 900 năm gắn chặt với lịch sử củaĐế quốc La Mã Thần thánh,[34] là thế lực nổi lên sau đó từ phần phía đông đế quốc ban đầu của Charlemagne. Lãnh thổ này ban đầu được gọi làĐông Frank, trải dài từ sông Rhine ở phía tây đếnsông Elbe ở phía đông, và từbiển Bắc đếndãy Alpen.[33]
Những quân chủ củaVương triều Otto (919–1024) hợp nhất một số công quốc lớn và Quốc vương người German/ĐứcOtto I đăng quangHoàng đế La Mã Thần thánh của các khu vực này vào năm 962. Năm 996,Giáo hoàng Grêgôriô V trở thành giáo hoàng người Đức đầu tiên, do người họ hàng của ông làOtto III bổ nhiệm- không lâu sau đăng quang Hoàng đế La Mã Thần thánh. Đế quốc La Mã Thần thánh sáp nhậpmiền bắc Ý ngày nay và khu vựcBourgogne nay thuộc Pháp dưới thời trị vì của các hoàng đế thuộcGia tộc Salier (1024–1125), song các hoàng đế mất đi quyền lực dotranh luận phong chức với giáo hội.[35]
Trong thế kỷ XII, dưới thời các hoàng đế thuộcGia tộc Staufer (1138–1254), các vương công Đức thay vào đó gia tăng ảnh hưởng của họ về phía nam và phía đông đến các lãnh thổ mà người Slav cư trú; họ khuyến khích người Đức định cư tại các khu vực này, gọi là phong trào định cư miền đông(Ostsiedlung). Các thành viên củaLiên minh Hanse hầu hết là các thành thị miền bắc Đức, họ thịnh vượng nhờ mở rộng mậu dịch.[36] Tại phương nam, Công ty Mậu dịch Đại Ravensburg (Große Ravensburger Handelsgesellschaft) giữ chức năng tương tự. Hoàng đếKarl IV ban hành sắc lệnhGoldene Bulle vào năm năm 1356, tạo cấu trúc hiến pháp cơ bản của Đế quốc, và hệ thống hóa tuyển cử hoàng đế bởi bảytuyển đế hầu- là những người cai trị một số thân vương quốc và tổng giáo phận mạnh nhất.[37]
Dân số suy giảm trong nửa đầu thế kỷ XIV, bắt đầu từ nạn đói lớn năm 1315, tiếp đến làCái chết Đen năm 1348–50.[38] Tuy vậy, các nghệ sĩ, kỹ sư và nhà khoa học Đức phát triển một loạt các kỹ thuật tương tự như thứ được các nghệ sĩ và nhà thiết kế Ý sử dụng vào đương thời, những người phát triển hưng thịnh tại các thành bang thương nghiệp nhưVenezia,Firenze vàGenova. Các trung tâm nghệ thuật và văn hóa khắp các quốc gia Đức sản sinh các nghệ sĩ như họa sĩ Hans Holbein và con trai, vàAlbrecht Dürer.Johannes Gutenberg giới thiệu in ấn kiểu di động đến châu Âu, đây là một bước phát triển đặt cơ sở để truyền bá kiến thức đến đại chúng.[39]
Năm 1517, tu sĩMartin Luther tuyên bố95 luận đề, thách thứcGiáo hội Công giáo La Mã và khởi xướngCải cách Kháng nghị. Năm 1555, Hòa ước Augsburg công nhậnGiáo hội Luther là một lựa chọn có thể chấp thuận thay cho Công giáo La Mã, song cũng ra sắc chỉ rằng đức tin của vương công là đức tin của các thần dân của ông ta, một nguyên tắc gọi là"lãnh địa của ai thì tôn giáo theo người đó". Thỏa thuận tại Augsburg thất bại trong việc xác định các đức tin tôn giáo khác: chẳng hạnThần học Calvin (đức tin Cải cách) vẫn bị cho là dị giáo và nguyên tắc không giải quyết khả năng cải đạo của một người thống trị giáo hội, như từng diễn ra tại Tuyển hầu quốc Köln vào năm 1583. TừChiến tranh Köln cho đến khi kết thúc Chiến tranh Ba mươi Năm (1618–1648), xung đột tôn giáo tàn phá các vùng đất Đức.[40] Chiến tranh Ba mươi Năm làm giảm dân số tổng thể của các quốc gia Đức đến khoảng 30%, và lên đến 80% tại một số nơi.[41]Hòa ước Westfalen kết thúcchiến tranh tôn giáo giữa các quốc gia Đức.[40] Các quân chủ Đức có thể lựa chọn Công giáo Rôma, Lutheran hoặc Calvinist làm tôn giáo chính thức của họ sau năm 1648.[42]
Trong thế kỷ XVIII, Đế quốc La Mã Thần thánh gồm có khoảng 1.800 lãnh thổ.[43] Hệ thống pháp lý phức tạp khởi đầu từ một loạt cải cách (khoảng 1450–1555) tạo ra các lãnh thổ đế quốc, và tạo ra quyền tự trị địa phương đáng kể tại các quốc gia tăng lữ, thế tục và thế tập, được phản ánh tại Quốc hội Đế quốc.Gia tộc Habsburg nắm giữ đế vị từ năm 1438 cho đến khiKarl VI mất vào năm 1740. Do không có nam giới thừa kế, ông thuyết phục các tuyển đế hầu duy trì quyền bá chủ của gia tộc Habsburg đối với chức hoàng đế bằng việc chấp thuận một chiếu thư vào năm 1713. Điều này cuối cùng được giải quyết nhờChiến tranh Kế vị Áo; theoHiệp ước Aix-la-Chapelle (1748),chồng của Công chúaMaria Theresa trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh, còn bà cai trị đế quốc với thân phận hoàng hậu. Từ năm 1740,cạnh tranh giữa Vương triều Habsburg Áo vàVương quốc Phổ chi phối lịch sử Đức.
Năm 1772, sau đó là vào năm 1793 và 1795, hai quốc gia Đức chiếm ưu thế là Phổ và Áo đã cùng vớiĐế quốc Nga thỏa thuậnphân chia Ba Lan với nhau. Kết quả là hàng triệu cư dân nói tiếng Ba Lan thuộc quyền thống trị của hai chế độ quân chủ Đức. Tuy nhiên, các lãnh thổ bị sáp nhập vào Phổ và Áo không được nhìn nhận về pháp lý là bộ phận của Đế quốc La Mã Thần thánh.[44][45]
Trong thời kỳChiến tranh Cách mạng Pháp, cùng với việc xuất hiện thời kỳ Napoléon và sau đó là phiên họp cuối cùng của Quốc hội Đế quốc, hầu hết các thành phố đế quốc tự do thế tục được sáp nhập vào lãnh thổ của các vương triều; các lãnh thổ tăng lữ bị thế tục hóa và sáp nhập. Năm 1806, Đế quốc La Mã Thần thánh bị giải thể; các quốc gia Đức, đặc biệt làcác quốc gia Rheinland, nằm dưới ảnh hưởng của Pháp. Cho đến năm 1815, Nga, Phổ và Vương triều Habsburg cạnh tranh quyền bá chủ trong các quốc gia Đức thờiChiến tranh Napoléon.[46]
Sau khiNapoléon thất bại,Đại hội Viên (triệu tập vào năm 1814) hình thànhBang liên Đức (Deutscher Bund), một liên minh không chặt chẽ của hàng chục quốc gia có chủ quyền. Hoàng đế Áo được bổ nhiệm làm tổng thống vĩnh viễn của Bang liên, phản ánh việc Đại hội không chấp thuận ảnh hưởng của Phổ trong các quốc gia Đức, và làm trầm trọng cạnh tranh trường kỳ giữa quyền lợi của Gia tộc Hohenzollern cai trị Phổ và Gia tộc Habsburg cai trị Áo. Bất đồng về kết quả của Đại hội góp phần khiến các phong trào tự do nổi lên, tiếp đó là các biện pháp đàn áp mới của chính khách ÁoMetternich. Liên minh thuế quanZollverein xúc tiến thống nhất kinh tế trong các quốc gia Đức.[47] Các tư tưởng dân tộc và tự do củaCách mạng Pháp được ủng hộ ngày càng tăng trong nhiều người Đức, đặc biệt là thanh niên. Lễ hội Hambach vào tháng 5 năm 1832 là một sự kiện chính nhằm ủng hộ thống nhất Đức, tự do và dân chủ. Trong bối cảnh một loạt phong trào cách mạng diễn ra tại châu Âu, lập ra một cộng hòa tại Pháp, giới trí thức và thường dân bắt đầutiến hành cách mạng tại các quốc gia Đức vào năm 1848. Quốc vươngFriedrich Wilhelm IV của Phổ được đề nghị tước hiệu hoàng đế song với quyền lực hạn chế; ông bác bỏ đế vị và đề xuất hiến pháp, dẫn đến một bước lùi tạm thời cho phong trào.[48]
Quốc vươngWilhelm I bổ nhiệmOtto von Bismarck làm Thủ tướng Phổ vào năm 1862. Bismarck kết thúc thắng lợichiến tranh với Đan Mạch vào năm 1864, giúp xúc tiến lợi ích của Đức tạibán đảo Jylland. Tiếp đến là thắng lợi quyết định của Phổ trongchiến tranh với Áo vào năm 1866, cho phép Bismarck lập raBang liên Bắc Đức (Norddeutscher Bund) không bao gồmÁo. Sau khi Pháp thất bại trongChiến tranh Pháp-Phổ, các vương công Đức tuyên bố thành lập Đế quốc Đức vào năm 1871 tạiVersailles, thống nhất toàn bộ các bộ phận rải rác của Đức ngoại trừ Áo. Phổ là quốc gia cấu thành chi phối đế quốc mới; Quốc vương Phổ thuộc Gia tộc Hohenzoller cai trị Đức với thân phận Hoàng đế, và Berlin trở thành thủ đô của đế quốc.[48]
Trong giai đoạnGründerzeit sau khiThống nhất nước Đức, chính sách ngoại giao của Thủ tướng Đức Bismarck dưới quyền Hoàng đế Wilhelm I là đảm bảo vị thế đại quốc của Đức bằng các liên minh giả mạo, cô lậpPháp theo các cách thức ngoại giao, và tránh chiến tranh. Dưới thờiWilhelm II, Đức cũng như các cường quốc châu Âu khác bước vào tiến trình chủ nghĩa đế quốc, dẫn đến xích mích với các quốc gia láng giềng. Hầu hết các liên minh mà Đức tham gia trước đó không được gia hạn. Kết quả là hình thành một liên minh kép vớiĐế quốc Áo-Hung đa sắc tộc. Sau đó, Liên minh Tam cường 1882 có thêm Ý, hoàn thành một liên minh địa lý Trung Âu, thể hiện lo ngại của người Đức, Áo và Ý trước khả năng Pháp và/hoặc Nga xâm nhập chống lại họ. Tương tự, Anh, Pháp và Nga cũng dàn xếp liên minh nhằm bảo vệ họ chống lại can thiệp của Vương triều Habsburg đến các quyền lợi của Nga tạiBalkan hay Đức can thiệp chống Pháp.[49]
Vụ ám sátthái tử của Áo vào ngày 28 tháng 6 năm 1914 khiến Đế quốc Áo-Hung có cớ để tấn công Serbia và phát độngChiến tranh thế giới thứ nhất. Sau bốn năm giao tranh, có khoảng hai triệu binh sĩ Đức thiệt mạng,[53] dưới sự tham chiến của Hoa Kỳ, chiến sự chuyển đổi thành xấu đi cho Đức, một thỏa thuận đình chiến tổng thể kết thúc giao tranh vào ngày 11 tháng 11 sau khi chế độ mới ở Đức cùng quyết định ngừng chiến ngày 9 tháng 11 năm 1918, và các binh sĩ Đức trở về quê. TrongCách mạng Đức tháng 11 năm 1918, Hoàng đế Wilhelm II và toàn bộ các vương công cai trị tại Đức phải thoái vị. Ban lãnh đạo chính trị mới của Đức ký kếtHòa ước Versailles vào năm 1919. Theo hiệp định này, Đức với tư cách là bộ phận củaLiên minh Trung tâm chấp thuận chiến bại trước Đồng Minh. Người Đức nhận định hiệp định này là điều sỉ nhục và bất công, và sau này được các sử gia cho là ảnh hưởng đến việcAdolf Hitler lên nắm quyền.[54][55][56] Sau chiến bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức mất khoảng 30% lãnh thổ tại châu Âu (các khu vực này có cư dân chủ yếu là người thuộc dân tộc Ba Lan, Pháp và Đan Mạch), và toàn bộ thuộc địa tại châu Phi và Thái Bình Dương.[57]
Ngày 11 tháng 8 năm 1919,Tổng thốngFriedrich Ebert ký Hiến pháp Weimar dân chủ.[58] Trong đấu tranh quyền lực tiếp sau, phái cộng sảnđoạt quyền tại Bayern, song các thành phần bảo thủ tại các địa phương khác của Đức ra sức lật đổ Cộng hòa trongcuộc đảo chính Kapp. Sau đó là một giai đoạn náo loạn gồm giao tranh đổ máu trên đường phố tại các trung tâm công nghiệp lớn, binh sĩ Bỉ và Pháp chiếm đóng vùng Ruhr và lạm phát gia tăng với đỉnh điểm làlạm phát phi mã 1921–1923. Một kế hoạch tái cơ cấu nợ cộng việc thiết lập một đơn vịtiền tệ mới vào năm 1924 mở ra Thập niên 20 hoàng kim, một thời kỳ gia tăng sáng tạo nghệ thuật và sinh hoạt văn hóa tự do.[59][60][61]
Đại khủng hoảng toàn cầu lan đến Đức vào năm 1929. Sau bầu cử liên bang vào năm 1930, chính phủ của Thủ tướngHeinrich Brüning được Tổng thốngPaul von Hindenburg trao quyền hành động mà không cần nghị viện phê chuẩn. Chính phủ của Brüning theo đuổi chính sách khắc khổ tài chính và giảm lạm phát, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao đến gần 32% vào năm 1932.[62] Cũng trong cùng năm,Đảng Quốc Xã doAdolf Hitler lãnh đạo giành thắng lợi trong một cuộc bầu cử liên bang đặc biệt. Sau một loạt các nội các thất bại, Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933.[63] Sauvụ hỏa hoạn tại tòa nhà quốc hội, chính phủ ban hành một sắc lệnh bãi bỏ các dân quyền cơ bản, và trong vài tuần trại tập trung Quốc xã tạiDachau được mở cửa.[64][65]Đạo luật Cho quyền năm 1933 trao cho Hitler quyền lực lập pháp không bị hạn chế, trên cả hiến pháp;[66] rồi chính phủ của ông tạo ra một nhà nước toàn trị tập trung hóa, rút khỏiHội Quốc Liên sau một cuộc trưng cầu dân ý quốc gia, và bắt đầutái vũ trang quân sự.[67] Sử dụng cách thức chi tiêu thâm hụt, một chương trình do chính phủ bảo trợ nhằm khôi phục kinh tế tập trung vào các dự án công trình công cộng, trong đó dự án nổi tiếng nhất là đường cao tốc gọi làautobahn.[68]
Năm 1935, chế độ quốc xã rút khỏi Hòa ước Versailles và áp dụngLuật Nürnberg nhằm vàongười Do Thái cùng các dân tộc thiểu số khác. Đức cũng giành lại quyền kiểm soátSaarland vào năm 1935,[69]tái quân sự hóa Rheinland vào năm 1936, sáp nhập Sudetenland của Tiệp Khắc bằngHiệp ước München,sáp nhập Áo vào năm 1938, cũng như chiếm đóng Tiệp Khắc vào đầu năm 1939 bất chấp hiệp ước trên.[70] Trong sự kiệnKristallnacht (đêm thủy tinh), nhiều giáo đường Do Thái bị đốt, cửa hàng Do Thái bị đập phá và hàng loạt người Do Thái bị bắt giữ.[71]
Trong một chuỗi hệ thống hành động sau này được sử sách gọi làHolocaust, chính phủ Đức ngược đãi các cộng đồng thiểu số, sử dụng một hệ thống trại tập trung vàhành quyết trên khắp châu Âu để tiến hành diệt chủng những người mà họ cho là thuộc chủng tộc hạ đẳng. Tổng cộng, có trên 10 triệu thường dân bị sát hại một cách có hệ thống, trong đó có sáu triệu người Do Thái, từ Đức và các quốc gia bị Đức chiếm đóng.[80] Chính sách của Quốc Xã tại các quốc gia bị Đức chiếm đóng gây ra cái chết của 2,7 triệu người Ba Lan,[81] 1,3 triệungười Ukraina,[82] và ước tính lên đến 2,8 triệu tù binh Liên Xô.[82][83] Số binh sĩ Đức tử vong do chiến tranh ước tính là 3,2–5,3 triệu,[84] và có đến 2 triệu thường dân Đức thiệt mạng.[85][cần số trang] Khoảng 12 triệu người dân tộc Đức bị trục xuất khỏi Đông Âu (gồm lãnh thổ bị mất). Đức phải nhượng lại khoảng một phần tư lãnh thổ trước chiến tranh của mình.
Phe Đồng Minh phân chia Berlin và lãnh thổ còn lại của Đức thành 4 khu vực chiếm đóng quân sự đại diện cho 2 khối đối địch bằnghiệp ước ởHội nghị Potsdam vào ngày 1 tháng 8 năm 1945. Do bất đồng và mâu thuẫn vềý thức hệ, các khu vực miền tây do Pháp, Anh và Hoa Kỳ kiểm soát được hợp nhất vào ngày 23 tháng 5 năm 1949 để hình thànhCộng hòa Liên bang Đức (tiếng Đức:Bundesrepublik Deutschland); đến ngày 7 tháng 10 năm 1949, khu vực do Liên Xô chiếm đóng trở thànhCộng hòa Dân chủ Đức (tiếng Đức:Deutsche Demokratische Republik); còn được gọi một cách không chính thức là "Tây Đức" và "Đông Đức". Đông Đức chọnĐông Berlin làm thủ đô, còn Tây Đức chọnBonn làm thủ đô lâm thời, nhằm nhấn mạnh lập trường nhất quán của mình rằng giải pháp hai nhà nước chỉ là một tình trạng tạm thời.[86]
Tây Đức là một nước cộng hòa nghị viện liên bang theo "kinh tế thị trường xã hội". Bắt đầu vào năm 1948, Tây Đức trở thành một quốc gia nhận viện trợ tái thiết chính trongKế hoạch Marshall.[87]Konrad Adenauer được bầu làm thủ tướng liên bang (Bundeskanzler) đầu tiên của Đức vào năm 1949 và giữ chức vụ này cho đến năm 1963. Dưới quyền lãnh đạo của ông vàLudwig Erhard, Tây Đức có tăng trưởng kinh tế dài hạn bắt đầu từ đầu thập niên 1950, được cho là một "kì tích kinh tế" (tiếng Đức:Wirtschaftswunder).[88] Tây Đức gia nhậpNATO vào năm 1955 và trở thành một thành viên sáng lập củaCộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) vào năm 1957, và cũng thu hồi được vùngSaar cùng năm.[89]
Đông Đức là một quốc gia thuộcKhối phía Đông, nắm dưới quyền kiểm soát chính trị và quân sự lớn của Liên Xô thông qua lực lượng chiếm đóng vàKhối Warszawa. Mặc dù Đông Đức tự nhận là một quốc gia dân chủ, song quyền lực chính trị do các thành viên Bộ chính trị của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức độc quyền thi hành, được hỗ trợ từ cơ quan an ninh mậtStasi.[90] Một nền kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô được lập nên và Đông Đức trở thành một quốc gia thuộcHội đồng Tương trợ Kinh tế SEV.[91] Tuyên truyền của Đông Đức dựa trên quyền lợi của các chương trình xã hội do chính phủ thực hiện, và liên tục cáo buộc mối đe dọa về Tây Đức xâm chiếm, song nhiều công dân của Đông Đức nhìn nhận phương Tây đại diện cho tự do và thịnh vượng.[92]Bức tường Berlin được xây dựng vào năm 1961 nhằm ngăn người Đông Đức đào thoát sang Tây Đức, nó trở thành một biểu tượng choChiến tranh Lạnh.[48] Sự kiện bức tường này sụp đổ vào năm 1989 trở thành một tượng trưng cho chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, tái thống nhất Đức và bước ngoặt tại Đông Đức (Die Wende).[93]
Căng thẳng giữa Đông Đức và Tây Đức giảm thiểu vào đầu thập niên 1970 do chính sách mới của Thủ tướngWilly Brandt đối với phía Đông. Trong mùa hè năm 1989, Hungary quyết định pháBức màn sắt và mở cửa biên giới, khiến hàng nghìn người Đông Đức nhập cư đến Tây Đức qua Hungary. Điều này có tác động tàn phá đến Đông Đức, tại đây các cuộc tuần hành đại chúng định kỳ nhận được ủng hộ ngày càng lớn. Nhà đương cục Đông Đức nới lỏng hạn chế biên giới, cho phép công dân Đông Đức đi sang Tây Đức; ban đầu nhằm giúp duy trì Đông Đức, song việc mở cửa biên giới thực tế dẫn đến tăng tốc chương trình cải cáchWende. Đỉnh điểm của chương trình này làHiệp ước 2 + 4 vào ngày 12 tháng 9 năm 1990, theo đó bốn thế lực chiếm đóng từ bỏ mọi quyền lợi của họ theo Văn kiện Đầu hàng trước đây, và Đức thu hồi chủ quyền đầy đủ. Điều này cho phépTái thống nhất Đức vào ngày 3 tháng 10 năm 1990, khi Cộng hòa Liên bang Đức tiếp nhận năm bang tái lập của Cộng hòa Dân chủ Đức cũ.[48]
Đức thống nhất vào ngày 3 tháng 10 năm 1990.[94] Từ năm 1999, Tòa nhà Quốc hội tại Berlin là nơi hội họp củaQuốc hội Liên bang Đức.
Nước Đức thống nhất được nhìn nhận là sự mở rộng thêm Cộng hòa Liên bang Đức và là một quốc gia kế thừa. Do đó, họ duy trì toàn bộ tư cách thành viên của Tây Đức trong các tổ chức quốc tế.[95] Dựa theo Đạo luật Berlin/Bonn được thông qua vào năm 1994, Berlin lại trở thành thủ đô của nước Đức tái thống nhất, còn Bonn duy trì vị thế độc nhất là một thành phố liên bang(Bundesstadt) và giữ lại một số bộ của liên bang.[96] Việc di chuyển chính phủ hoàn thành vào năm 1999,[97] và công tác hiện đại hóa nền kinh tế Đông Đức được dự kiến sẽ kéo dài đến năm 2019, với chuyển khoản hàng năm từ miền tây sang miền đông lên đến khoảng 80 tỷ USD.[98][99]
Sau khi khi tái thống nhất, Đức giữ một vai trò tích cực hơn trong Liên hiệp châu Âu. Cùng với các đối tác châu Âu, Đức ký kếtHiệp ước Maastricht vào năm 1992, lập raKhu vực đồng euro vào năm 1999,[100] và ký kếtHiệp ước Lisbon vào năm 2007.[101][102] Đức phái một lực lượng duy trì hòa bình đi đảm bảo ổn định tại Balkan và phái một lực lượng binh sĩ Đức đếnAfghanistan trong một nỗ lực của NATO nhằm cung cấp an ninh tại đó sau khiTaliban bị lật đổ.[103][104]
Sau bầu cử năm 2005,Angela Merkel trở thành nữ thủ tướng đầu tiên của Đức với cương vị là thủ lĩnh một đại liên minh.[48] Năm 2009, chính phủ Đức phê chuẩn một kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 50 tỷ euro nhằm bảo vệ một vài lĩnh vực khỏi suy thoái.[105]
Năm 2009, một liên minhtự do-bảo thủ dưới quyền Angela Merkel nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Năm 2013, một đại liên minh được lập ra trong nội các thứ ba của Angela Merkel. Trong số các dự án chính trị lớn của Đức vào đầu thế kỷ XXI có tiến bộ củahội nhập châu Âu, chuyển đổi năng lượng (Energiewende) sang nguồn cung cấp năng lượng bền vững, các biện pháp nhằm tăng tỷ lệ sinh, và các chiến lược công nghệ cao nhằm chuyển đổi tương lai nền kinh tế Đức, tổng kết lại là cuộcCách mạng Công nghiệp lần thứ 4 hoặc làCông nghiệp 4.0.[106]
Đức chịu tác động từkhủng hoảng di cư châu Âu năm 2015 khi quốc gia này trở thành điểm đến cuối cùng trong lựa chọn của hầu hết di dân vào EU. Đức tiếp nhận trên một triệu người tị nạn và phát triển một hệ thống hạn ngạch nhằm tái phân bổ các di dân khắp các bang của mình dựa trên thu nhập từ thuế và mật độ dân cư hiện hữu.[107]
Nước Đức nằm trong Trung Âu, giữa 47°16′15″ và 55°03′33″ vĩ độ bắc và 5°52′01″ và 15°02′37″ kinh độ đông. Về phía bắc Đức có ranh giới với Đan Mạch (có chiều dài 67 km), về phía đông-bắc là Ba Lan (442 km), về phía đông là Séc 811 km), về phía đông nam là Áo (815 km không kể ranh giới trên hồBodensee), về phía nam là Thụy Sĩ (316 km, với biên giới của lãnh thổ tách rờiBüsingen nhưng không kể ranh giới trên hồ Bodensee), về phía tây nam là Pháp (448 km), về phía tây là Luxembourg (135 km) và Bỉ (156 km) và về phía tây bắc là Hà Lan (567 km).[5] Chiều dài ranh giới tổng cộng là 3.757 km. Trong khi ở phía tây bắc là bờ biển củabiển Bắc và ở phía đông bắc làbiển Baltic tạo thành biên giới quốc gia tự nhiên thì về phía nam nước Đức là một phần của dãy núiAnpơ.
Lãnh thổ bên ngoài duy nhất của Đức là Büsingen nằm trong vùng thượng lưu sông Rhein thuộc vềhuyện Konstanz của bangBaden-Württemberg. Büsingen có diện tích là 7,62 km² và được bao bọc hoàn toàn bởi ba bang của Thụy Sĩ làSchaffhausen,Thurgau vàZürich. Ngoài ra còn cóKleinwalsertal thuộc Áo và nếu bằng đường bộ hay bằng đường thủy thì chỉ xuyên qua lãnh thổ quốc gia Đức mới có thể đến được.
Theo Niên giám thống kê Đức (Statistisches Jahrbuch Deutschland, thời điểm năm2000) điểm trung tâm về địa lý của Đức nằm trong làngNiederdorla thuộc bangThüringen, giữa đoạn đường từErfurt đếnGöttingen, trên 51°09′54″ vĩ độ bắc và 10°27′19″ kinh độ đông. Điểm cực bắc của Đức nằm trên bán đảoElenbogen thuộc đảoSylt, điểm cực bắc trên đất liền của quốc gia nằm trên bờ biển tây của bangSchleswig-Holstein tạiRickelsbüller Koog, điểm cực nam làHaldenwanger Eck nằm về phía nam củaOberstdorf trên núi Anpơ. Từ Ellenbogen đến Haldenwanger Eck là khoảng 886 km (đường chim bay). Điểm cực tây của Đức nằm trong bangNordrhein-Westfalen, không xaIsenbruch (là địa danh cực tây của quốc gia), điểm cực đông nằm giữaNeißeaue-Deschka (làng cực đông của quốc gia) và Neißeaue-Zentendorf trong một vòng cung củasông Neiße. Từ Isenbruch đến vòng cung này của sông Neiße gần Zentendorf là tròn 636 km (đường chim bay).
Địa hình thay đổi đặc biệt là theo hướng từ Bắc vào Nam vì địa thế có chiều hướng cao hơn và dốc hơn về phía nam. Phần miền Bắc của nước Đức, vùng đồng bằng Bắc Đức, là một vùng đồng bằng phần lớn được tạo thành từthời kỳ Băng hà, kế tiếp về phía nam là vùng đồi núi có rừng ở trung tâm và các phần đất miền Nam của Đức. Đặc biệt là tại bang Bayern nhưng cũng ở tại bang Baden-Württemberg, địa hình này chuyển tiếp đến vùngAlpenvorland Bắc tương đối cao, sau đấy lại chuyển tiếp đến vùng núi cao của dãy núi Anpơ.
Nước Đức đa dạng vềđịa chất. Trong khi các địa hình mang dấu ấu củathời kỳ Băng hà, các vùng đất thấp và các lưu vực sông chỉ thành hình từ niên đạiPhân đại đệ Tam thì vùng đồi núi trung bình có niên đại lâu đời hơn rất nhiều. Các vùng đồi núi đã bị xói mòn, ví dụ như vùngRừng Đen, đã hình thành từ thờiĐại Cổ sinh và được cấu thành chủ yếu từ loại đá xâm nhập (tiếng Anh:plutonic rock) như đágơnai vàgranite. Vùng cao Rhenish (Rheinisches Schiefergebirge) cũng có niên đại tương tự, được thành hình trongkỷ Silur vàkỷ Devon. Tại ranh giới về phía bắc của vùng này còn có các thành hệ từkỷ Than đá, trong đóvùng Ruhr có các mỏ than đá có trữ lượng lớn.Địa mạo miền Nam nước Đức phần lớn do những phát triển trongĐại Trung Sinh: trong khi Pfalz, Thüringen, nhiều phần của Bayern và Sachsen được tạo thành về mặt địa chất trongkỷ Trias thì vùngSchwäbische Alb vàFränkische Alb chạy ngang qua miền Nam nước Đức là kết quả của việc đáy biển nâng lên trongkỷ Jura. Các vùng được nhắc đến đầu tiên cósa thạch, các vùng sau cóđá vôi là những thành hệ địa chất chiếm ưu thế. Hoạt động núi lửa không được quan sát thấy tại Đức. Tuy vậy, trong một số vùng vẫn có đá núi lửa xuất phát từ hoạt động núi lửa trước đây, đặc biệt là trongVulkaneifel và trên dãy núi lửaVogel trong bang Hessen. Nước Đức nằm hoàn toàn trênmảng Á-Âu vì vậy không có những trận động đất gây hậu quả nặng nề. Mặc dù vậy đứt gãy Rhein (Rheingraben) thuộc bang Nordrhein-Westfalen được xếp vào vùng nguy hiểm động đất trung bình, kéo dài đến các nước láng giềng Bỉ và Hà Lan.
Nước Đức giáp biển Bắc tại các bangNiedersachsen vàSchleswig-Holstein. Đây là một biển nằm trên thềm lục địa thuộcĐại Tây Dương. Cùng vớieo biển Manche, vùng phía nam của biển Bắc là vùng biển có mật độ giao thông cao nhất thế giới. Các bangMecklenburg-Vorpommern và Schleswig-Holstein nằm cạnh biển Baltic, là một biển nội địa được nối liền với biển Bắc qua eo biểnSkagerrak. Độ thay đổi thủy triều ở biển Baltic ít hơn ở biển Bắc rất nhiều.
Những sông chính là các sôngRhein,Donau (còn có tên khác là sông Danube),Elbe,Oder,Weser vàEms. Dài nhất trong các sông này là sông Donau. Với 2.845 km từ nơi hợp lưu của hai sôngBrigach vàBreg và là nguồn của sông Donau tạiDonaueschingen hay với 2.888 km từ nguồn của sông Breg tại vùng ranh của Rừng Đen, sông Donau là sông dài thứ hai châu Âu sau sông Volga. Thế nhưng chỉ một phần nhỏ của toàn bộ đoạn đường của sông Donau là chảy qua Đức (47 km). Sông Donau đổ rabiển Đen. Tất cả những sông Đức khác chảy ra biển Bắc hay biển Baltic.Đường phân thủy châu Âu qua nước Đức chạy về phía đông của vùngđồng bằng thượng lưu sông Rhein trên chỏm núi chính của vùng Rừng Đen. Trong những sông này, sông Rhein chính là con sông có đoạn đường dài nhất nước Đức. Trong số 1.320 km đường sông có 865 km nằm trong nước Đức. Thêm vào đó, sông này còn có một vai trò tạo bản sắc riêng cho người Đức, được kết tụ từ lịch sử và nhiều thần thoại cũng như truyền thuyết. Chức năng kinh tế của con sông này cũng rất quan trọng: sông Rhein là một trong những đường thủy có mật độ giao thông cao nhất châu Âu. Sông Elbe bắt nguồn từRiesengebirge (tiếng Séc:Krkonoše) tại biên giới của Séc và Ba Lan và đổ ra biển Bắc tạiCuxhaven sau khoản 1.165 km, trong đó là 725 km nằm trong nước Đức. Đã có thời gian đây là một trong những sông bị ô nhiễm chất độc hại nhiều nhất châu Âu, nhưng trong thời gian gần đây chất lượng nước đã tốt hơn rõ rệt. Nguồn sông Oder nằm tạiBeskiden (tiếng Séc:Beskydy) của Séc. Sau vài km sông Oder chảy sang Ba Lan và trung lưu của nó chạy quaSchlesien. Hạ lưu sông này tạo thành biên giới Đức-Ba Lan để rồi lại đổ vào vùng nước đông Stettin trong lãnh thổ Ba Lan. Qua eo biểnŚwina dòng sông này chảy qua giữa các đảoUsedom vàWollin đổ vào biển Baltic.
Các hồ trong nước Đức phần lớn thành hình sau khi thời kỳ Băng hà chấm dứt. Do vậy mà đa số các hồ lớn nằm trong các vùng đã từng bị băng tuyết bao phủ hay vùng đất cạnh trước đó, đặc biệt là tại Mecklenburg và Alpenvorland. Hồ lớn nhất có phần thuộc Đức làBodensee, hồ cũng là biên giới của Áo và Thụy Sĩ. Hồ lớn nhất hoàn toàn thuộc về lãnh thổ quốc gia của Đức làMüritz.
Anpơ là dãy núi cao duy nhất, có một phần thuộc về nước Đức. Tại đấy có ngọnZugspitze (2.962 m) cao nhất Đức. Vùng núi với độ cao trung bình có khuynh hướng cao dần và rộng ra từ Bắc xuống Nam. Ngọn núi cao nhất ở đấy là Feldberg trong vùng Rừng Đen với 1.493 m, kế tiếp làGroße Arbern trong rừng Bayern với 1.456 m. Ngoài ra, có các ngọn núi trên 1.000 m là các vùngErzgebirge,Fichtelgebirge, Schwäbische Alb và trường hợp đặc biệt làHarz bị cô lập hẳn như là vùng đồi núi ở về phía bắc nhiều nhất trong các vùng đồi núi của nước Đức với ngọnBrocken nhô cao đến 1.142 m. Về phía bắc của đợt đồi núi này chỉ còn một vài thành hệ địa chất cao hơn 100 m, trong số đó cóHagelberg trongFläming với 200 m là ngọn cao nhất. Địa điểm thấp nhất vẫn còn có thể đi được của Đức nằm dưới mực nước biển 3,54 m trong một vùng trũng gầnNeuendorf-Sachsenbande trongWilstermarsch (bang Schlewig-Holstein). Cũng nằm trong bang này là điểm thấp nhất với 39,10 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của hồHemmelsdorf về phía bắc-đông bắc củaLübeck. Điểm nhân tạo thấp nhất với 293 m dưới mực nước biển nằm ở đáy của mỏ lộ thiên Hambach về phía đông củaJülich trong bang Nordrhein-Westfalen.
So vớichiều dài bờ biển thì Đức có một số lượng đảo đáng kể. Các đảo trong biển Bắc phần lớn nằm trong dạng hình chuỗi chắn đất liền. Chúng được chia ra thành các đảo bắc Friesen và đông Friesen, là một phần của bãi bồi Wattenmeer Đức. Các đảo bắc Friesen của Đức thuộc bang Schleswig-Holstein và bao gồm các đảo lớnSylt,Föhr,Amrum vàPellworm cũng như là các đảoHallig nhỏ hơn rất nhiều. Từ khi đắp đậpBeltringharder Koog thìNordrand đã trở thành một bán đảo. Các đảo đông Friesen thuộc bang Niedersachsen có độ lớn tương tự. Các đảo này hình thành từ những bãi cát bồi do tác động của sóng biển. Lớn nhất trong các đảo này làBorkum. Một trường hợp ngoại lệ là đảoHelgoland nằm ngoài khơi xa của biển Bắc.
Các đảo trong biển Baltic nằm gần bờ biển Bodden của Đức có chiều hướng lớn hơn và có địa hình thay đổi nhiều hơn. Đảo lớn nhất trong các đảo này và đồng thời cũng là hòn đảo lớn nhất của Đức làRügen, tiếp theo đó làUsedom song đầu mũi đảo về phía đông đã thuộc về Ba Lan. Cũng như các đảo trên biển Bắc, các đảo của biển Baltic là điểm đến du lịch được ưa thích.
Trong một số sông hồ nội địa Đức cũng có đảo mà trong đó được biết đến nhiều nhất làMainau vàReichenau trên Bodensee cũng như làHerrenchiemsee trênChiemsee.
Nước Đức thuộc về vùng khí hậu ôn hòa Trung Âu, trong khu vực của vùng gió Tây và nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa khí hậu đại dương tại Tây Âu vàkhí hậu lục địa tại Đông Âu. Ngoài những yếu tố khác, khí hậu chịu ảnh hưởng của dònghải lưu Golfstream tạo nên những trị khí hậu ấm áp khác thường so với vị trí vĩ độ này. Điều kiện thời tiết khắc nghiệt như hạn hán kéo dài, gió xoáy, băng giá với nhiệt độ cực thấp hay nóng cao độ tương đối hiếm. Thế nhưng thỉnh thoảng vẫn xuất hiện giông bão và chúng đã gây ra nhiều thiệt hại nặng như trong năm 2000 và 2002. Tại Đức cũng thường hay xảy ra nước lũ sau thời gian mưa nhiều trong mùa hè hay sau khi tan tuyết trong mùa đông, có thể dẫn đến lụt và gây tàn phá nặng. Việc hay có nước lũ tại sông Rhein có thể là do việc đắp đập và đào thẳng sông Rhein trong thế kỷ XIX dưới sự lãnh đạo của Tulla đã xóa bỏ các vùng ngập nước tự nhiên trước kia của con sông này. Hạn hán chủ yếu chỉ xảy ra ở vùng đông bắc nước Đức nhưng đôi lúc cũng ảnh hưởng đến trên toàn nước Đức như trong đợt nóng năm 2003.
Số liệu khí hậu(giá trị trung bình của các năm 1961–1990):
Tùy theo vùng mà các trị về khí hậu vượt quá hay thấp dưới giá trị trung bình về khí hậu của toàn nước Đức rất nhiều. Miền Nam Baden ghi nhận nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất là 11 °C trong khi ởOberstdorf trị trung bình nằm dưới 6 °C. Thêm vào đó một xu hướng nóng lên đang hình thành: theo số liệu của Nhà khí tượng quốc gia Đức(Deutscher Wetterdienst) thì ngoại trừ năm 1996 nhiệt độ trung bình của tất cả các năm từ 1988 đều trên nhiệt độ trung bình lâu năm là 8,3 °C, trong năm 2003 còn đạt đến 9,9 °C. Đặc biệt là mùa hè đã nóng hơn rõ rệt. Thêm vào đó là mùa xuân cứ đến sớm hơn 5 ngày mỗi một thập niên. Chim di trú ở lại Đức lâu hơn gần 1 tháng so với thập niên 1970. Nhiệt độ thấp nhất từng được đo ở Đức là -45,9 °C được ghi nhận vào ngày 24 tháng 12 năm 2003 tạiFuntensee. Nhiệt độ cao nhất cho đến nay là 40,3 °C vào ngày 8 tháng 8 năm 2003 tại Nennig.
Thành phần và chất lượng đất rất khác nhau tùy theo vùng. Tại miền Bắc Đức một vành đai gần biển từ đất đầm lầy màu mỡ tạo cơ sở cho một nền nông nghiệp có sản lượng cao trong khi vùng đất cát nằm tiếp sau đó chịu nhiều ảnh hưởng của thời kỳ Băng hà chỉ có đất rất cằn cỗi. TạiLüneburger Heide đất này đã bị thoái hóa trở thành đấtpodsol vì trồng cỏ qua nhiều thế kỷ nên gần như không còn có thể trồng trọt được nữa. Cũng rất cằn cỗi là các vùngbăng tích cũ và mới có cát bồi tụ lại. Thí dụ nhưBrandenburg trong lịch sử đã nổi tiếng như là "hộp cát rải của Đế quốc La Mã Thần thánh".
Giữa những vùng băng tích và vùng núi cao trung bình là một dãy đất hoàng sa màu mỡ chạy từ Tây sang Đông và được sử dụng nông nghiệp cao độ. Trong vùng núi cao trung bình ở miền trung nước Đức phần nhiều là đất không màu mỡ, phần lớn diện tích là rừng. Trong miền Nam nước Đức các vùng đất tốt đặc biệt là nằm dọc theo các sông Rhein, Main và Donau.
Tổng cộng có 53,5% diện tích nước Đức là đất nông nghiệp, 29,5% diện tích là đất rừng, 12,3% diện tích là đất ở và đất giao thông (với xu hướng ngày càng tăng) và 1,8% diện tích là nước mặt.[cần dẫn nguồn]
Nước Đức nằm ở vùng khí hậu ôn hòa. Do vậy, hệ thực vật được đặc trưng bằng những rừng cây lá rộng và lá kim. Sự khác biệt về các đặc điểm địa hình, khí hậu theo từng khu vực tạo nên một hệ thực vật phong phú và đa dạng. Hệ thực vật tự nhiên từ tây sang đông đánh dấu quá trình thay đổi của khí hậu: Từ khí hậu đại dương phía tây sang khí hậu lục địa. Loại cây chủ yếu trong các rừng cây lá rộng là câydẻ gai đỏ. Bên cạnh đó, những khu rừng ngập nước cạnh sông hồ (ngày càng ít dần) và rừng hỗn hợp các loại câysồi,dẻ gai cũng là những loại rừng đặc trưng. Tiêu biểu cho khu vực núiAlpen và khu vực đồi núi miền trung là rừng khe núi dọc sông. Rừng trẻ được tạo thành từ các loại câybạch dương vàthông trên những vùng đất cát. Dĩ nhiên, những loại cây lá rộng rất phổ biến trước đây được thay thế bằng những rừng thông.
Nếu như không có sự tác động của con người thì hệ thực vật ở Đức cũng như ở phần lớn các nước ở vùng khí hậu ôn hòa được tạo thành từ rừng, trừ những vùng đất trũng nhiễm phèn, vùng đầm lầy cũng như vùng núi cao thuộc dãyAlpen và khu vực lân cận, là vùng núi nghèo thực vật và có khí hậu lạnh ôn hòa đặc trưng.
29,5% diện tích lãnh thổ Đức hiện nay là rừng. Như vậy, Đức là một trong những nước có nhiều rừng ở Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, các loại cây rừng được xác định do mục đích sử dụng, tỉ lệ rừng thông không phù hợp với các điều kiện tự nhiên vốn thích hợp hơn cho các loại rừng dẻ gai hỗn hợp. Bên cạnh các loại cây bản địa thì một loạt các loại cây được nhập về trồng (như keo gai) cũng chiếm một vai trò quan trọng. Phần lớn đất hoang đã được sử dụng để trồng các loại cây lương thực và cây ăn trái như đại mạch, kiều mạch, lúa mạch đen, lúa mì, cũng như khoai tây và ngô được đưa về từ châu Mỹ. Ngoài ra còn có táo và cải dầu. Ở các thung lũng sông của các sông như Morsel, Ahr và Rhein được cải tạo để trồng nho.
Bảo tồn thiên nhiên là nhiệm vụ công cộng ở Đức, phục vụ mục đích của nhà nước, được quy định trong điều 20 của Hiến pháp. Mục tiêu của việc bảo vệ thiên nhiên ở Đức là giữ gìn thiên nhiên và cảnh vật tự nhiên (chương 1 Luật Bảo vệ thiên nhiên của Liên bang). Đối tượng quan trọng phải bảo vệ là cảnh vật tự nhiên, thực vật và động vật. Những khu vực và đối tượng quan trọng nhất được bảo vệ hiện nay là 14 vườn quốc gia, 19 khu dự trữ sinh quyển, 95 công viên tự nhiên cũng như hàng ngàn khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo tồn cảnh vật tự nhiên và di tích thiên nhiên.
Phần lớn các loại động vật có vú ở Đức sống trong các khu rừng lá rộng ôn hòa. Ở rừng có các loạichồn khác nhau,hươu đỏ,hươu hoang,lợn rừng,linh miêu vàcáo.Hải li vàrái cá là những động vật đã trở nên hiếm ở các khu rừng ngập nước, song gần đây số lượng của chúng lại phần nào có tăng. Các loại động vật có vú lớn khác từng sống ở Trung Âu đã bị diệt vong:bò rừng châu Âu (vào khoảng năm 1470),gấu nâu (1835),nai sừng tấm (ở thời Trung cổ hãy còn nhiều),ngựa rừng (thế kỷ XIX),bò bizon châu Âu (thế kỷ XVII/XVIII),sói (1904). Thời gian gần đây, thỉnh thoảng có một số nai sừng tấm, sói từ Ba Lan và Séc tới cư trú. Ở các nước đó, số lượng các loài vật này đã tăng trở lại. Loài sói thậm chí đã hình thành những bầy đàn mới, đầu tiên ở vùngSorben, thời gian vừa qua cả ở phía tây, kể từ khi vào năm 2000 con sói con đầu tiên được sinh ra. Vào tháng 3 năm 2010, một đàn bò bizon châu Âu được đưa vào cư trú ở vùng núiRothaargebirge thuộc bang Nordrhein-Westfalen. Trong trường hợp sói vàgấu nâu thì do một số điều phiền toái chúng đã gây ra trong thời gian qua làm cho việc quy hoạch cư trú cho chúng gặp vấn đề. Ở các vùng núi cao thuộc dãy Anpơ códê núi Alpen vàsói mác-nốt. Ở vùng trung du như khu vực Rừng Đen, khu vựcFrankische Alp cósơn dương.
Hải cẩu ở Biển Bắc
Các loài bò sát quen thuộc nhất ở Đức gồm córắn cỏ,rắn vipera berus (rắn lục),rùa orbicularis. Bên cạnh đó còn có các loài lưỡng cư nhưkỳ giông,ếch,cóc,cóc tía,kỳ nhông: Tất cả các loài này đã được đưa vào sách đỏ.Đại bàng đuôi trắng được xem là nguyên mẫu cho biểu tượng hình chim trên huy hiệu các vùng, miền lãnh thổ, hiện nay còn tới 500 đôi, chủ yếu sống ở vùngMecklenburg-Vorpommern vàBrandenburg. Đại bàng vàng chỉ có ở vùng núi Anpơ thuộc bang Bayern, loài diều hâu ở đó đã bị diệt vong, song hiện nay đã lại có một số cá thể từ Áo và Thụy Sĩ tới cư trú. Các loài chim săn mồi phổ biến nhất ở Đức hiện nay làdiều hâu thường vàcắt lưng hung. Tuy nhiên số lượngcắt lớn lại ít đi một các rõ rệt. Hơn một nửa sốchim ưng milvus được sinh ra ở Đức, song do sự phát triển của sản xuất nông nghiệp nên số lượng của chúng ngày càng giảm. Đáng lưu ý là có một số lượng lớn các loài chim sống dựa vào sự hiện diện của con người: Đó là các loàibồ câu,hoét thông thường,sẻ,bạc má, sống nhờ thức ăn công nghiệp mùa đông; cũng nhưquạ vàmòng biển sống nhờ rác thải. Một điều đặc biệt là đàn chimhồng hạc ở phía bắc trong vùng rừng đầm lầyZwillbrocker Venn.Cá hồi trước đây thường có ở các sông song gần như đã bị diệt vong ở khắp nơi do quá trình công nghiệp hóa vào thế kỷ XIX, chúng được thả trở lại ở sông Rhein vào những năm 80 của thế kỷ XX. Concá tầm cuối cùng ở Đức bắt được vào năm 1969. Ở nhiều ao đầm được thả nuôi cá chép là loài cá mà người La Mã cổ đại đã mang đến.Hải cẩu sống ở biển Bắc và biển Baltic có lúc gần như bị biến mất. Vừa qua có lại được khoảng mấy nghìn con ởbiển Wadden thuộc Biển Bắc.Hải cẩu xám đã có lúc hoàn toàn không còn nữa ở Bắc Âu do bị đánh bắt, song gần đây lại có nhiều và một số đã di chuyển tới vùng bờ biển của Đức. Biển Wadden có ý nghĩa lớn là nơi dừng chân của 10 đến 12 triệu chim di trú mỗi năm. Loài cá voi quen thuộc nhất của Biển Bắc và Biển Baltic làcá voi họ chuột, ngoài ra còn có bảy loại cá voi khác như:cá nhà táng,cá hố kình. Bên cạnh đó còn có loàicá heo mõm ngắn. Bên cạnh các loài thú bản địa thì một số lượng đáng kể các loài thú nhập cư đã tới sinh sống. Đại diện tiêu biểu nhất làgấu mèo châu Mỹ,lửng chó,vẹt cổ hồng vàngỗng Ai Cập. Các loài thú nhập cư khác làngỗng Canada,đà điểu Nam Mỹ,tôm sông châu Mỹ,ếch bò châu Mỹ,cừu núi châu Âu,cá rô gai.
Đức là một nước cộng hòa liên bang,nghị viện, vàdân chủ đại diện. Hệ thống chính trị Đức được vận hành theo khuôn khổ được quy định trong văn bản hiến pháp năm 1949 mang tênLuật cơ bản. Sửa đổi theo thường lệ cần có đa số hai phần ba của cả lưỡng viện; các nguyên tắc cơ bản của hiến pháp được biểu thị trong các điều khoản về đảm bảo nhân phẩm, cấu trúc liên bang và pháp quyền có giá trị vĩnh viễn.[108]
Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và chủ yếu được trao trách nhiệm và quyền lực tượng trưng. Chức vụ này được bầu ra bởiHội nghị Liên bang, một thể chế gồm các thành viên củaQuốc hội Liên bang (Bundestag, còn gọi là Hạ viện) và một số lượng bình đẳng đại biểu từ các bang. Chức vụ cao thứ hai theo thứ tự ưu tiên làChủ tịch Hạ viện, là người do quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm giám sát các phiên họp thường nhật. Chức vụ cao thứ ba và người đứng đầu chính phủ là Thủ tướng, do tổng thống bổ nhiệm sau khi được quốc hội bầu ra.[48] Thủ tướngOlaf Scholz là người đứng đầu chính phủ từ năm 2021 và thi hành quyền lực hành pháp.Bundestag vàHội đồng Liên bangBundesrat (còn gọi là Thượng viện) tạo thành nhánh lập pháp.Bundestag được bầu thông qua tuyển cử trực tiếp theo đại diện tỷ lệ (thành viên hỗn hợp).[5] Thành viên củaBundesrat đại diện cho chính phủ của mười sáu bang và là thành viên của các nội các cấp bang.[48]
Tỷ lệ nợ/GDP của Đức đạt đỉnh vào năm 2010 khi nó đạt 80,3% và giảm xuống kể từ đó.[110] TheoEurostat, tổng nợ chính phủ của Đức lên đến 2.152 tỷ euro hay 71,9% GDP vào năm 2015.[111] Chính phủ liên bang đạt được thặng dư ngân sách 12,1 tỷ euro vào năm 2015.[112] Cáccơ quan xếp hạng tín dụngStandard & Poor's,Moody's vàFitch Ratings xếp hạng Đức ở mức cao nhất có thể làAAA với triển vọng ổn định vào năm 2016.[113]
Các thẩm phán của Tòa án Hiến pháp Liên bang tại Karlsruhe vào năm 1989
Đức có hệ thống pháp luật dân sự dựa theoLuật La Mã với một số tham khảo luậtGerman cổ.Tòa án Hiến pháp Liên bang là tòa án tối cao của Đức chịu trách nhiệm về hiến pháp, có quyền lực phúc thẩm tư pháp.[48][114] Hệ thống tòa án tối cao của Đức gọi làOberste Gerichtshöfe des Bundes và có tính chuyên biệt: đối với các vụ án dân sự và hình sự, tòa án kháng cáo cao nhất làTòa án liên bang tối cao, đối với các vụ án khác thì tòa án cao nhất là Tòa án Lao động Liên bang, Tòa án Xã hội Liên bang, Tòa án Tài chính Liên bang, vàTòa án Hành chính Liên bang.
Pháp luật hình sự và cá nhân được hệ thống hóa ở cấp quốc gia lần lượt trongLuật Hình sự vàLuật Dân sự. Hệ thống hình phạt của Đức tìm cách cải tạo tội phạm và bảo vệ dân chúng.[115] Ngoại trừ các vụ án nhỏ do một thẩm phán chuyên nghiệp xét xử, cũng như các tội chính trị nghiêm trọng, tất cả các cáo buộc được xét cử trước tòa án hỗn hợp, tại đó các thẩm phán không chuyên (Schöffen) ngồi cạnh các thẩm phán chuyên nghiệp.[116][117] Nhiều vấn đề cơ bản trong pháp luật hành chính nằm dưới thẩm quyền của cấp bang.
Đức gồm 16 bang.[118] Mỗi bang có hiến pháp riêng[119] và phần lớn được tự trị về vấn đề tổ chức nội bộ. Do khác biệt về kích thước và dân số, phân cấp của các bang khác nhau, đặc biệt là giữa các thành bang (Stadtstaaten) và các bang có lãnh thổ lớn (Flächenländer). Vì mục đích hành chính khu vực, có năm bang là Baden-Württemberg, Bayern, Hessen, Nordrhein-Westfalen và Sachsen có tổng cộng 22huyện chính quyền (Regierungsbezirke). Tính đến năm 2013[cập nhật] Đức được chia thành 402huyện (Kreise) ở cấp khu tự quản; trong đó có 295 huyện nông thôn (Kreise hoặcLandkreise) và 107 huyện đô thị (Kreisfreie Städte).[120]
Đức đăng cai Hội nghị thượng đỉnhG20 tạiHamburg, 7–8 tháng 7 năm 2017
Đức có mạng lưới 277 phái bộ ngoại giao tại nước ngoài[124] và trong đó duy trì quan hệ ngoại giao chính thức với trên 190 quốc gia.[125] Tính đến năm 2011[cập nhật], Đức là nước đóng góp lớn nhất vào ngân sách củaLiên minh châu Âu (cung cấp 20%)[126] và là nước đóng góp nhiều thứ ba cho Liên Hợp Quốc (cung cấp 8%).[127] Đức là một thành viên củaNATO,OECD,G8,G20,Ngân hàng Thế giới vàIMF. Đức giữ vai trò có ảnh hưởng trong Liên minh châu Âu từ khi tổ chức này bắt đầu, và duy trì một liên minh mạnh với Pháp và toàn bộ các quốc gia láng giềng khác kể từ năm 1990. Đức xúc tiến hình thành một bộ máy chính trị, kinh tế và an ninh châu Âu thống nhất hơn.[128][129]
Chính sách phát triển của Đức là một khu vực độc lập trong chính sách đối ngoại. Nó do Bộ Hợp tác và Phát triển Kinh tế xây dựng, và do các tổ chức thực hiện. Chính phủ Đức nhận thức chính sách phát triển là trách nhiệm chung của cộng đồng quốc tế.[130] Đây là nhà tài trợ lớn thứ ba thế giới vào năm 2009 sau Hoa Kỳ và Pháp.[131][132]
Năm 1999, chính phủ của Thủ tướngGerhard Schröder xác định một cơ sở mới cho chính sách đối ngoại của Đức khi tham gia chiến dịch của NATO xung quanhChiến tranh Kosovo và lần đầu tiên phái binh sĩ Đức đi chiến đấu kể từ năm 1945.[133] Các chính phủ Đức và Hoa Kỳ là đồng minh chính trị mật thiết.[48] Liên hệ văn hóa và lợi ích kinh tế tạo mối ràng buộc giữa hai quốc gia đưa đến kết quả là chủ nghĩa Đại Tây Dương.[134]
Quân đội Đức (Bundeswehr) được tổ chức thành các nhánhHeer (lục quân và lực lượng đặc biệt KSK),Marine (hải quân),Luftwaffe (không quân), Cục Y tế chung và Cục Hậu cần chung. Theo giá trị tuyệt đối, chi tiêu quân sự của Đức cao thứ chín trên thế giới vào năm 2011.[135] Năm 2015, chi tiêu quân sự là 32,9 tỷ euro, chiếm khoảng 1,2% GDP quốc gia, dưới mục tiêu của NATO là 2%.[136] Tính đến tháng 12 năm 2015[cập nhật], quân đội Đức sử dụng khoảng 178.000 thành viên phục vụ, trong đó có 9.500 tình nguyện viên.[137] Binh sĩ dự bị sẵn sàng cho quân đội và tham gia diễn tập phòng thủ và triển khai tại nước ngoài.[138] Từ năm 2001 phụ nữ có thể phục vụ trong toàn bộ các nhiệm vụ mà không bị hạn chế.[139] Khoảng 19.000 nữ binh sĩ đang tại ngũ. TheoSIPRI, Đức là nước xuất khẩu vũ khí hạng nặng lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2014.[140] Vào thời bình, quân đội Đức do Bộ Quốc phòng chỉ huy. Trong tình trạng phòng thủ, Thủ tướng sẽ trở thành tổng tư lệnh của quân đội Đức.[141] Vai trò củaBundeswehr được mô tả trong Hiến pháp Đức là chỉ để phòng thủ. Sau một phán quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang vào năm 1994, thuật ngữ "phòng thủ" được xác định không chỉ bao gồm bảo vệ biên giới Đức, mà còn là đối phó với khủng hoảng và ngăn ngừa xung đột, hoặc rộng hơn là đảm bảo an ninh của Đức trên toàn thế giới. Tính đến tháng 1 năm 2015[cập nhật], quân đội Đức có khoảng 2.370 binh sĩ đồn trú tại nước ngoài trong vị thế thuộc các lực lượng duy trì hòa bình, trong đó có khoảng 850 binh sĩBundeswehr trong lực lượngISAF do NATO lãnh đạo tại Afghanistan vàUzbekistan, 670 binh sĩ Đức tạiKosovo, và 120 binh sĩ trongUNIFIL tại Liban.[142] Cho đến năm 2011, phục vụ quân sự là bắt buộc đối với nam giới vào tuổi 18, và các binh sĩ nghĩa vụ phục vụ trong thời hạn sáu tháng; những người phản đối vì lương tâm có thể chọn phục vụ dân sự với thời gian tương tự, hoặc sáu năm phục vụ khẩn cấp (tự nguyện) như cứu hỏa tự nguyện và Chữ thập Đỏ. Năm 2011, nghĩa vụ quân sự chính thức bị đình chỉ và bị thay thế bằng phục vụ tự nguyện.[143][144]
Về không quân, Đức hiện đang sở hữu 141 máy bay tiêm kíchEurofighter Typhoon (liên doanh với các nước Anh, Ý và Tây Ban Nha), bên cạnh đó còn có khoảng 100 chiếc máy bay đa chức năngPanavia Tornado. Máy bay vận tải của không quân Đức chủ yếu được sản xuất bởi hãngAirbus, đáng chú ý nhất là máy bay bốn động cơ phản lực cánh quạtAirbus A400M. Ngoài ra không quân Đức còn sở hữu các loạitrực thăng nhưSikorsky CH-53 (Hoa Kỳ), Eurocopter (EU) và máy bay không người láiIAI Heron TP (Israel).
Hải quân Đức hiện sở hữu 65 tàu chiến các loại, bao gồm 4khinh hạm F125 lớp Baden-Württemberg, 3 khinh hạm F124 lớp Sachsen, 4 khinh hạm F123 lớp Brandenburg, 1 khinh hạm F122 lớp Bremen, 5hộ vệ hạm loại nhỏ, 6tàu ngầm Type 212, cùng với 2trục lôi hạm, 10 tàu phá mìn, 20 tàu bổ sung và 11 tàu phụ trợ.
Theo điều tra nhân khẩu năm 2011, dân số Đức là 80,2 triệu, và tăng lên 83,1 triệu vào năm 2019.[146] Đức là quốc gia đông dân nhất Liên minh châu Âu, đông dân thứ hai châu Âu chỉ sau Nga vàthứ 19 thế giới.[147]Mật độ dân số rơi vào khoảng 227 cư dân cho mỗi kilômét vuông.Ước lượng tuổi thọ khi sinh là 80,19 năm (77,93 năm cho nam giới và 82,58 năm cho nữ giới).[5]
Đức đang bị già hóa dân số nhanh chóng. Tỷ suất sinh là 1,41 trẻ em với mỗi phụ nữ (ước tính năm 2011), một trong các mứcthấp nhất thế giới.[5] Kể từ thập niên 70,tỷ lệ tử vong của Đức đã vượttỷ lệ sinh.[148] Tuy nhiên, Đức đang chứng kiến tỷ lệ sinh và tỷ lệ nhập cư gia tăng bắt đầu trong thập niên 2010,[149] đặc biệt là tăng số lượng người nhập cư có học thức.[150][151] Đức là quốc gia có dân số già thứ ba thế giới, tuổi thọ trung bình người dân là khoảng 47,4 tuổi.[5]
Bốn nhóm dân cư lớn được quy là "dân tộc thiểu số" do tổ tiên của họ sinh sống tại các khu vực tương ứng trong nhiều thế kỷ.[152] Đó là người dân tộc thiểu số Đan Mạch (khoảng 50.000) tại bang cực bắc Schleswig-Holstein.[152] Người Sorb thuộc nhómSlav có khoảng 60.000 người, sống tại khu vựcLusatia của các bang Sachsen vàBrandenburg. NgườiRoma cư trú khắp lãnh thổ liên bang, vàngười Frisia sống tại duyên hải miền tây bang Schleswig-Holstein cũng như tại tây bắcNiedersachsen.[152]
Có khoảng 5 triệu người có quốc tịch Đức cư trú tại nước ngoài (2012).[153] Năm 2014, có khoảng bảy triệu người trong số 81 triệu cư dân Đức không có quyền công dân Đức. Sáu mươi chín phần trăm trong số đó sống tại miền tây của liên bang và hầu hết là tại các khu vực đô thị.[154][155] Năm 2015, Đức là quốc gia có số lượng di dân quốc tế cao thứ hai thế giới, với khoảng 5% hay 12 triệu người.[156] Đức xếp hạng bảy trong EU và thứ 37 toàn cầu về tỷ lệ người nhập cư so với tổng dân số. Tính đến năm 2014[cập nhật], các dân tộc-quốc gia đông nhất là từ Thổ Nhĩ Kỳ (2.859.000), tiếp đến là Ba Lan (1.617.000), Nga (1.188.000), và Ý (764.000).[157] Từ năm 1987, có khoảng 3 triệu người dân tộc Đức, hầu hết từ các quốc gia Khối phía Đông, đã thực hiện quyền trở về của mình và di cư đến Đức.[158]
Khi thống nhất vào năm 1871, khoảng 2/3 dân số Đức theoTin Lành và 1/3 dân số theoCông giáo, cùng một cộng đồng thiểu sốDo Thái giáo đáng kể. Các giáo phái khác cũng hiện diện tại Đức, song có ít ý nghĩa về nhân khẩu và tác động về văn hóa như ba nhóm trên. Cộng đồng Do Thái giáo thiểu số tại Đức gần như biến mất trongHolocaust và thành phần tôn giáo của Đức cũng biến đổi dần trong các thập niên sau năm 1945, khi Tây Đức trở nên đa dạng hơn về tôn giáo do nhập cư còn Đông Đức trở thành quốc gia đa sốkhông theo tôn giáo do chính sách của nhà nước. Tôn giáo tại Đức tiếp tục đa dạng sau khi Đức tái thống nhất vào năm 1990, về tổng thể là tính mộ đạo giảm đi nhiều trên toàn quốc song số tín đồphái phúc âm vàHồi giáo lại tăng lên.[160]
Theo điều tra nhân khẩu Đức năm 2011,Cơ Đốc giáo là tôn giáo lớn nhất tại Đức chiếm 66,8% tổng dân số.[161] Trong đó, so với tổng dân số, 31,7% tuyên bố họ là tín đồTin Lành, và 31,2% tuyên bố họ là tín đồCông giáo.[162] Tín đồChính thống giáo chiếm 1,3%; các tôn giáo khác chiếm 2,7%. Về phương diện địa lý, tín đồ Tin Lành tập trung tại miền bắc, miền trung và miền đông của quốc gia. Đa số họ là thành viênGiáo hội Tin Lành tại Đức (EKD), bao gồmLutheran vàCalvinist. Tín đồ Công giáo tập trung tại miền nam và miền tây. Năm 2014, Giáo hội Công giáo có 23,9 triệu thành viên (29,5% dân số)[163] và Giáo hội Tin Lành có 22,6 triệu thành viên (27,9% dân số).[164] Số lượng tín hữu của cả hai Giáo hội đều giảm trong những năm gần đây. Năm 2011, 33% người Đức không phải thành viên của các tổ chức tôn giáo được công nhận chính thức với tình trạng đặc biệt.[162] Nhóm Không tôn giáo tại Đức mạnh nhất là tại Đông Đức và các khu vực đại đô thị.[165][166][167] Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai tại Đức, theo điều tra nhân khẩu năm 2011 thì 1,9% người Đức tự nhận là người Hồi giáo.[162] Các ước tính gần đây hơn cho thấy rằng có khoảng 2,1-4,3 triệu người Hồi giáo cư trú tại Đức.[168] Hầu hết người Hồi giáo thuộc pháiSunni vàAlevi từ Thổ Nhĩ Kỳ, song có lượng nhỏ tín đồ thuộc các phái khác nhưShia.[169] Các tôn giáo khác chiếm dưới 1% dân số Đức[162] làPhật giáo với hơn 270.000 tín đồ được đăng ký chính thức, Do Thái giáo với 200.000 tín đồ, vàẤn Độ giáo với 100.000 tín đồ. Các cộng đồng tôn giáo còn lại tại Đức có ít hơn 50.000 tín đồ mỗi tôn giáo.[170]
Tiếng Đức là ngôn ngữ chính thức và chiếm ưu thế tại Đức.[171] Đây là một trong 24 ngôn ngữ chính thức và công việc của Liên minh châu Âu,[172] và là một trong ba ngôn ngữ công việc củaỦy ban châu Âu. Tiếng Đức là tiếng mẹ đẻ được nói phổ biến nhất trong Liên minh châu Âu, với khoảng 100 triệu người bản ngữ.[173] Các ngôn ngữ thiểu số bản địa được công nhận làtiếng Đan Mạch,tiếng Hạ Đức,tiếng Sorbia,tiếng Roma, vàtiếng Frisia; chúng được bảo vệ chính thức theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực và thiểu số. Các ngôn ngữ nhập cư được sử dụng phổ biến nhất là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Kurd, tiếng Ba Lan, các ngôn ngữ Balkan, và tiếng Nga. Người Đức có đặc trưng là đa ngôn ngữ: 67% công dân Đức cho biết có thể giao thiệp bằng ít nhất một ngoại ngữ và 27% bằng ít nhất hai ngoại ngữ.[171] Tiếng Đức tiêu chuẩn thuộchệ Tây German, có liên hệ mật thiết và được phân loại cùng nhóm với tiếng Hạ Đức, tiếng Hà Lan, tiếng Frisia và tiếng Anh. Trong phạm vi nhỏ hơn, nó cũng có liên hệ với các ngữ hệ Đông German (đã tuyệt diệt) và Bắc German. Hầu hết từ vựng trong tiếng Đức bắt nguồn từnhánh German củangữ hệ Ấn-Âu.[174] Thiểu số đáng kể các từ có nguồn gốc từ tiếng Latinh và Hy Lạp, cùng một lượng nhỏ hơn từ tiếng Pháp và gần đây nhất là tiếng Anh. Tiếng Đức sử dụng bảng chữ cái Latinh để viết. Các phương ngữ tiếng Đức bắt nguồn từ dạng địa phương truyền thống của các bộ lạc German, và khác biệt với các dạng tiêu chuẩn của tiếng Đức qua từ vựng, âm vị, và cú pháp.[175]
Đại học Heidelberg được thành lập vào năm 1386 là một đại học xuất sắc của Đức.
Trách nhiệm giám sát giáo dục tại Đức chủ yếu được tổ chức trong mỗi bang. Giáo dục mầm non tùy chọn được cung cấp cho toàn bộ trẻ từ ba đến sáu tuổi, sau cấp trường này trẻ tham gia giáo dục nghĩa vụ trong ít nhất chín năm. Giáo dục tiểu học thường kéo dài từ bốn đến sáu năm.[176] Giáo dục trung học gồm ba loại hình trường học truyền thống, tập trung vào các cấp độ học thuật: Các trường lý thuyết (Gymnasium) dành cho các trẻ tài năng nhất và là để chuẩn bị cho học sinh theo học đại học; các trường thực tế (Realschule) dành cho học sinh trung bình và kéo dài trong sáu năm, và các trường học phổ thông (Hauptschule) chuẩn bị cho học sinh theo học giáo dục nghề.[177] Các trường toàn diện (Gesamtschule) hợp nhất toàn bộ các loại hình giáo dục trung học.
Một hệ thống học nghề gọi làDuale Ausbildung có kết quả là có chuyên môn lành nghề, hầu như tương đương với một bằng cấp học thuật. Nó cho phép các học sinh khi tham gia đào tạo nghề được học tại một công ty cũng như tại một trường thương mại quốc lập.[176] Mô hình này được đánh giá cao và được mô phỏng trên khắp thế giới.[178]
Hầu hết các đại học tại Đức là công lập, và sinh viên không phải trả học phí.[179] Điều kiện chung cho bậc đại học là kỳ thiAbitur. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ tùy theo mỗi bang, trường học và đối tượng. Giáo dục học thuật miễn phí không hạn chế đối với sinh viên quốc tế và ngày càng có nhiều du học sinh đến Đức.[180] Theo một báo cáo của OECD trong năm 2014, Đức là quốc gia đứng thứ ba thế giới thu hút sinh viên quốc tế.[181]
Hệ thống nhà tế bần của Đức mang tênspitals có từ thời Trung Cổ, và ngày nay Đức có hệ thống chăm sóc y tế phổ quát lâu năm nhất thế giới, từ pháp luật xã hội của Bismarck trong thập niên 1880.[185] Kể từ thập niên 1880, các cải cách và điều khoản đảm bảo một hệ thống chăm sóc y tế cân bằng. Hiện nay cư dân được bảo hộ thông qua một kế hoạch bảo hiểm y tế theo quy chế, có tiêu chuẩn cho phép một số nhóm lựa chọn một hợp đồng bảo hiểm y tế tư nhân. TheoTổ chức Y tế Thế giới, hệ thống chăm sóc y tế của Đức có 77% là do chính phủ tài trợ và 23% là do cá nhân chi trả tính đến năm 2013[cập nhật].[186] Năm 2014, Đức chi 11.3% GDP của mình cho chăm sóc y tế.[187] Năm 2013, Đức xếp hạng 20 trên thế giới về tuổi thọ dự tính với con số 77 năm cho nam giới và 82 năm cho nữ giới, và có tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh rất thấp (4 trên 1.000 ca sinh).[186]
Năm 2019, nguyên nhân tử vong chính của người Đức là bệnh tim mạch với 37%.[188] Năm 2008[cập nhật], khoảng 82.000 người Đức bị nhiễmHIV/AIDS và 26.000 chết vì dịch bệnh này (lũy tích, từ 1982).[189] Theo một khảo sát vào năm 2005, 27% người Đức trưởng thành hút thuốc lá.[189] Béo phì ngày càng được cho là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Một nghiên cứu vào năm 2007 cho thấy Đức có số người thừa cân cao nhất tại châu Âu.[190][191]
Frankfurt là trung tâm tài chính và kinh tế lớn của Châu Âu, đồng thời là chỗ tọa lạc của Ngân hàng Trung ương Châu Âu.[192]
Đức có nềnkinh tế thị trường xã hội, với lực lượng lao động trình độ cao, vốn tư bản lớn, mức độ tham nhũng thấp, và mức độ sáng tạo cao.[5][193][194] Đây là nước xuất khẩu hàng hóalớn thứ ba trên thế giới, và có nền kinh tế quốc dân lớn nhất tại châu Âu, đứng thứ tư trên thế giới theo GDP danh nghĩa[195] và thứ năm theo sức mua tương đương.[196] Tính đến năm 2017, khu vực dịch vụ đóng góp khoảng 71% cho tổng GDP (bao gồm công nghệ thông tin), công nghiệp 31%, và nông nghiệp 1%.[5] Tỷ lệ thất nghiệp doEurostat công bố là 3,2% trong tháng 1 năm 2020, thấp thứ tư trong Liên minh châu Âu.[197]
Đức nằm trong Thị trường chung châu Âu, tương ứng với hơn 450 triệu người tiêu dùng. Số liệu năm 2017 củaQuỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết quốc gia này chiếm 28% kinh tế của khu vực đồng Euro.[198] Đức cho lưu thông đồng tiền chung châu ÂuEuro vào năm 2002.[199][200] Chính sách tiền tệ được thiết lập bởiNgân hàng Trung ương Châu Âu có trụ sở tạiFrankfurt.[192][201]
Đức là quê hương củaô tô hiện đại, ngành công nghiệp ô tô tại Đức được nhìn nhận là nằm vào hàng cạnh tranh và sáng tạo nhất trên thế giới,[202] và đứngthứ tư về sản lượng.[203] Mười mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Đức là xe cộ, máy móc, hóa chất, sản phẩm điện tử, thiết bị điện, dược phẩm, thiết bị vận chuyển, kim loại thường, sản phẩm thực phẩm, cao su và chất dẻo (2015).[204]
Trong tổng số 500 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán theo doanh thu vào năm 2019 (tứcFortune Global 500), hết 29 công ty có trụ sở chính tại Đức.[205] DAX là chỉ số thị trường chứng khoán bao gồm 30 công ty lớn của Đức.[206] Một số thương hiệu nổi tiếng quốc tế làMercedes-Benz,BMW,Volkswagen,Audi,Siemens,Allianz,Adidas,Porsche,Bosch vàDeutsche Telekom.[207] Berlin là trung tâm của các công ty khởi nghiệp và đã trở thành địa điểm hàng đầu cho các công ty được tài trợ bởi đầu tư mạo hiểm trong Liên minh Châu Âu.[208] Đức có một lượng lớn các doanh nghiệp vừa nhỏ chuyên ngành đi theo mô hìnhMittelstand.[209] Chúng đại diện cho 48% công ty dẫn đầu thị trường toàn cầu trong các phân khúc của mình và còn được gọi làHidden champion.[210]
Do có vị trí tại trung tâm của châu Âu, Đức là trung tâm giao thông của lục địa.[211] Giống như các quốc gia láng giềng tại Tây Âu, mạng lưới đường bộ của Đức nằm vào hàng dày đặc nhất thế giới.[212]Hệ thống đường cao tốc quốc gia(Autobahn) được xếp hạng ba thế giới về chiều dài và nổi tiếng do không hạn chế tốc độ nói chung.[213]
Đức thiết lập một hệ thống đường sắt cao tốc đa tâm. Mạng lướiInterCityExpress hayICE của Công tyDeutsche Bahn phục vụ các thành phố lớn của Đức cũng như điểm đến tại các quốc gia láng giềng với tốc độ lên đến 300 km/h (190 mph).[214] Đường sắt Đức được chính phủ trợ cấp, với 17 tỷ euro vào năm 2014.[215]
Năm 2008[cập nhật], Đức là nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ sáu thế giới,[218] và 60% năng lượng sơ cấp được nhập khẩu.[219] Năm 2014, các nguồn năng lượng là: dầu (35,0%); than đá, trong đó có than non (24,6%); khí đốt tự nhiên (20,5%); hạt nhân (8,1%); thủy điện và nguồn tái tạo (11,1%).[220] Chính phủ và ngành năng lượng hạt nhân chấp thuận ngưng dần toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân đến năm 2021.[221] Họ cũng tiến hành các hoạt độngbảo tồn năng lượng,công nghệ xanh, giảm phát thải,[222] và đặt mục tiêu vào năm 2020 các nguồn tái tạo sẽ đáp ứng 40% nhu cầu điện năng của quốc gia. Đức cam kếtNghị định thư Kyoto và một vài hiệp ước khác đề xướng đa dạng sinh học, tiêu chuẩn phát thải thấp, quản lý nước, và thương mại hóa năng lượng tái tạo.[223] Tỷ lệ tái chế tại hộ gia đình của Đức nằm vào hàng cao nhất thế giới, vào khoảng 65% (2015).[224] Tuy thế, tổng phát thải khí nhà kính của Đức cao nhất trong EU vào năm 2010[cập nhật].[225] Chuyển đổi năng lượng Đức (Energiewende) là bước đi được công nhận để hướng đến một nền kinh tế bền vững bằng các biện pháp hiệu suất năng lượng và năng lượng tái tạo.[226]
Đức là nước hàng đầu toàn cầu về khoa học và kỹ thuật do có thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực này. Các nỗ lực nghiên cứu và phát triển tạo thành một bộ phận không thể thiếu của kinh tế Đức.[227] Hơn 100 người Đức từng được trao Giải Nobel.[228] Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và công nghệ của Đức cao thứ nhì thế giới (31%) sau Hàn Quốc (32%) vào năm 2012.[229] Đầu thế kỷ XX, người Đức giành được nhiều giải Nobel hơn bất kỳ quốc gia nào khác, đặc biệt là trong khoa học (vật lý, hóa học, y học).[230][231]
Tính đến năm 2017, Đức là điểm đến du lịch đứng chín thế giới với 37,4 triệu lượt đến của du khách.[239]Berlin đã trở thành điểm đến nhiều thứ ba châu Âu.[240] Du lịch và lữ hành nội địa và quốc tế kết hợp lại đóng góp trực tiếp €105,3 tỉ vào GDP. Nếu tính luôn cả các tác động gián tiếp thì ngành công nghiệp này đã cung cấp 4,2 triệu việc làm.[241]
Chợ giáng sinh (Weihnachtsmarkt) tại thành phốJena.
Văn hóa tại các bang của Đức được định hình từ các trào lưu tri thức và đại chúng lớn tại châu Âu, cả tôn giáo và thế tục. Trong lịch sử, do vai trò lớn của các nhà văn và triết gia Đức trong quá trình phát triển của tư tưởng phương Tây mà nước Đức được gọi làdas Land der Dichter und Denker (vùng đất của các nhà thơ và các nhà tư tưởng).[244][245] Một cuộc thăm dò quan điểm toàn cầu của BBC cho thấy Đức được công nhận là có ảnh hưởng tích cực nhất trên thế giới trong năm 2013 và 2014.[246][247]
Đức nổi tiếng với các truyền thống lễ hội dân gian nhưOktoberfest và phong tục giáng sinh―gồm các vòng hoa Mùa Vọng, hoạt cảnh Chúa Giáng sinh, cây thông Giáng sinh, bánh Stollen, cùng các nghi thức khác.[248][249] Tính đến năm 2016[cập nhật]UNESCO ghi danh41 di sản tại Đức vào danh sáchdi sản thế giới.[250] Có một số ngày nghỉ lễ công cộng tại Đức, do mỗi bang xác định; ngày 3 tháng 10 là ngày quốc khánh của Đức từ năm 1990, được kỷ niệm với tên gọiTag der Deutschen Einheit (Ngày thống nhất nước Đức).[251]
Phần đóng góp kiến trúc từ Đức bao gồm các phong cách Karoling và Otto, tiền thân củaKiến trúc Roman. Gothic Gạch là một phong cách Trung Cổ đặc biệt được tiến triển tại Đức. Trongkiến trúc Phục Hưng vàBaroque, các yếu tố khu vực và điển hình của Đức tiến triển (như Phục hưng Weser vàBaroqueDresden). Trong số nhiều bậc thầy Baroque nổi danh có Pöppelmann,Balthasar Neumann, Knobelsdorff và anh em nhà Asam. Trường phái Wessobrunner gây ảnh hưởng quyết định lên, và đương thời thậm chí là chi phối, nghệ thuật trát vữa stucco tại miền nam Đức trong thế kỷ XVIII. Con đường Baroque Thượng Schwaben là một tuyến du lịch có chủ đề baroque, nêu bật đóng góp của các nghệ sĩ và thợ thủ công như Johann Michael Feuchtmayer, một trong các thành viên của gia tộc Feuchtmayer và anh em Johann Baptist Zimmermann và Dominikus Zimmermann.[258] Kiến trúc bản xứ tại Đức thường được nhận biết thông qua truyền thống khung gỗ (Fachwerk) và khác biệt giữa các khu vực, và trong các phong cách mộc.[259][260]
Khi công nghiệp hóa lan khắp châu Âu, chủ nghĩa cổ điển và một phong cách đặc biệt củachủ nghĩa lịch sử phát triển tại Đức, đôi khi được gọi làphong cách Gründerzeit, do bùng nổ kinh tế vào cuối thế kỷ XIX. Các phong cách lịch sử khu vực gồm cóTrường phái Hannover,Phong cách Nuremberg vàTrường pháiSemper-Nicolai của Dresden. Trong số các tòa nhà nổi tiếng nhất của Đức,Lâu đài Neuschwanstein tiêu biểu cho Phục hưng Roma. Các tiểu phong cách nổi bật tiến hóa từ thế kỷ XVIII là kiến trúc suối khoáng và nghỉ dưỡng bờ biển. Các nghệ sĩ, nhà văn và nhà trưng bày của Đức như Siegfried Bing, Georg Hirth và Bruno Möhring cũng có đóng góp cho sự phát triển củaArt Nouveau khi bước sang thế kỷ XX, được gọi làJugendstil trong tiếng Đức.[261]
Kiến trúc biểu hiện phát triển trong thập niên 1910 tại Đức và ảnh hưởng đếnArt Deco và các phong cách hiện đại khác, có các kiến trúc sư nổi bật nhưErich Mendelsohn. Đức đặc biệt quan trọng vào đầuphong trào hiện đại: đây là quê hương củaWerkbund doHermann Muthesius khởi xướng (Tân Khách quan), và của phong tràoBauhaus doWalter Gropius thành lập. Do đó, Đức thường được nhận định là cái nôi của kiến trúc và thiết kế hiện đại.Ludwig Mies van der Rohe trở thành một trong các kiến trúc sư nổi tiếng nhất thế giới vào nửa sau thế kỷ XX. Ông thai nghén tòa nhà chọc trời có kính bao phủ bề ngoài.[262] Các kiến trúc sư và văn phòng đương đại nổi tiếng gồm có Hans Kollhoff, Sergei Tchoban, KK Architekten,Helmut Jahn, Behnisch, GMP, Ole Scheeren, J. Mayer H., OM Ungers,Gottfried Böhm vàFrei Otto - được traogiải Pritzker.[263]
Các công ty truyền thông hoạt động quốc tế lớn nhất tại Đức làBertelsmann,Axel Springer SE vàProSiebenSat.1 Media.Thông tấn xã Đức DPA cũng đáng chú ý. Thị trường truyền hình của Đức lớn nhất tại châu Âu, với khoảng 38 triệu hộ xem TV.[270] Khoảng 90% số hộ gia đình Đức có truyền hình cáp và vệ tinh (2012), đa dạng về các kênh truyền hình đại chúng miễn phí và thương mại.[271] Có hơn 500 đài phát thanh công cộng và tư nhân tại Đức, trong đóDeutsche Welle là cơ quan phát thanh và truyền hình chủ yếu của Đức phát bằng các ngoại ngữ.[272] Mạng lưới phát thanh quốc gia của Đức làDeutschlandradio, trong khi các đài ARD bao phủ phục vụ địa phương.
Thị trường video game của Đức nằm vào hàng lớn nhất thế giới.[274] Hội chợGamescom tại Köln là hội nghị game dẫn đầu thế giới.[275] Các loạt game phổ biến đến từ Đức gồm cóTurrican,Anno,The Settlers,Gothic,SpellForce,FIFA Manager,Far Cry vàCrysis. Các nhà phát triển và phát hành game liên quan là Blue Byte, Crytek, Deep Silver, Kalypso Media, Piranha Bytes, Yager Development, và một số công ty game mạng xã hội lớn nhất thế giới như Bigpoint, Gameforge, Goodgame và Wooga.[276]
Điện ảnh Đức có đóng góp lớn về kỹ thuật và nghệ thuật cho thế giới. Các tác phẩm đầu tiên của Anh em Skladanowsky được chiếu cho khán giả vào năm 1895. Xưởng phim Babelsberg nổi tiếng tạiPotsdam được thành lập vào năm 1912, là xưởng phim quy mô lớn đầu tiên trên thế giới và nay là xưởng phim lớn nhất châu Âu.[277] Các xưởng phim ban đầu và vẫn hoạt động là UFA và Bavaria Film. Điện ảnh Đức ban đầu có ảnh hưởng đặc biệt với các nhà biểu hiện Đức như Robert Wiene và Friedrich Wilhelm Murnau.Metropolis (1927) của đạo diễnFritz Lang được cho là phim khoa học viễn tưởng lớn đầu tiên.[278] Năm 1930,Josef von Sternberg làm đạo diễn choDer blaue Engel, phim có âm thanh quy mô lớn đầu tiên của Đức, có mặt diễn viênMarlene Dietrich.[279] Các phim củaLeni Riefenstahl đặt ra các tiêu chuẩn nghệ thuật mới, đặc biệt làNiềm tin chiến thắng.[280]
Xưởng phim Babelsberg gần Berlin, xưởng phim quy mô lớn đầu tiên của thế giới
Sau năm 1945, nhiều phim vào giai đoạn ngay sau chiến tranh có thể được mô tả làTrümmerfilm (phim gạch vụn), nhưDie Mörder sind unter uns (1946) củaWolfgang Staudte vàIrgendwo in Berlin (1946) củaWerner Krien. Các phim Đông Đức nổi bật phần lớn do hãng quốc doanh DEFA sản xuất, gồm cóEhe im Schatten của Kurt Maetzig (1947),Der Untertan (1951);Die Geschichte vom kleinen Muck (1953),Der geteilte Himmel (1964) củaKonrad Wolf vàJakob der Lügner (1975) củaFrank Beyer. Thể loại phim được định nghĩa tại Tây Đức trong thập niên 1950 có lẽ làHeimatfilm ("phim quê hương"); các phim này miêu tả cảnh đẹp của địa phương và đạo đức chính trực của cư dân sống tại đó.[281] Đặc trưng của phim trong thập niên 1960 là các phim thể loại bao gồm các phim phỏng theo tác phẩm củaEdgar Wallace vàKarl May. Một trong các loạt phim Đức thành công nhất trong thập niên 1970 có phim phóng sự tình dục mang tênSchulmädchen-Report (Phóng sự nữ sinh). Trong thập niên 1970 và 1980, các đạo diên Điện ảnh Đức Mới nhưVolker Schlöndorff,Werner Herzog,Wim Wenders, vàRainer Werner Fassbinder khiến điện ảnh tác giả chủ nghĩa Tây Đức được hoan hô.
Trong số các phim thành công về doanh thu phòng vé, cóErinnerungen an die Zukunft (1970),Das Boot (1981),Die unendliche Geschichte (1984),Otto – Der Film (1985),Lola rennt (1998),Der Schuh des Manitu (2001),Resident Evil series (2002–2016),Good Bye, Lenin! (2003),Gegen die Wand (2004),Das weiße Band – Eine deutsche Kindergeschichte (2009),Konferenz der Tiere (2010), vàCloud Atlas (2012).Giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất từng được trao choDie Blechtrommel vào năm 1979, choNirgendwo in Afrika vào năm 2002, và choDas Leben der Anderen vào năm 2007. Nhiều người Đức từng thắng giải "Oscar" vì thực hiện các bộ phim khác.[282]
Giải thưởng Điện ảnh châu Âu được trao tặng mỗi năm tại Berlin, nơi đặt trụ sở của Viện Hàn lâm Điện ảnh châu Âu.Liên hoan phim quốc tế Berlin trao giải "Gấu Vàng" và được tổ chức thường niên kể từ năm 1951, là một trong các liên hoan phim hàng đầu thế giới.[283] Tượng "Lola" được trao tặng thường niên tại Berlin trong khuôn khổGiải phim Đức được tổ chức từ năm 1951.[284]
Ẩm thực Đức biến đổi giữa các khu vực và thường thì các khu vực lân cận chia sẻ một số điểm tương đồng về nấu nướng (như các khu vực miền nam là Bayern và Schwaben chia sẻ một số truyền thống với Thụy Sĩ và Áo). Các loại đồ ăn quốc tế nhưpizza,sushi,đồ ăn Trung Hoa,đồ ăn Hy Lạp,đồ ăn Ấn Độ vàdoner kebab cũng phổ biến và hiện diện, nhờ các cộng đồng dân tộc đa dạng.
Bánh mì là một bộ phận quan trọng trong ẩm thực Đức và các tiệm bánh Đức sản xuất khoảng 600 loại bánh mì chính và 1.200 loại bánh ngọt và bánh mì nhỏ (Brötchen). Pho mát Đức chiếm khoảng một phần ba toàn bộ pho mát sản xuất tại châu Âu.[285] Năm 2012, trên 99% số thịt sản xuất tại Đức là thịt lợn, gà hoặc bò. Người Đức sản xuất xúc xích khắp nơi với khoảng 1.500 loại, trong đó cóBratwurst,Weisswurst, vàCurrywurst.[286] Năm 2012, thực phẩm hữu cơ chiếm 3,9% tổng doanh số bán thực phẩm.[287]
Mặc dù rượu vang đang trở nên phổ biến hơn tại nhiều phần của Đức, đặc biệt là tại các khu vực sản xuất rượu vang,[288] song đồ uống có cồn quốc gia là bia. Tiêu thụ bia Đức bình quân đạt 110 lít/người vào năm 2013 và duy trì ở các mức cao nhất thế giới.[289] Các quy tắc nguyên chất của bia Đức có niên đại từ thế kỷ XV.[290]
Năm 2015,Michelin Guide trao tặng cho mười một nhà hàng tại Đức hạng ba sao, là đánh giá cao nhất, trong khi có thêm 38 nhà hàng được hai sao và 223 nhà hàng được một sao.[291] Các nhà hàng Đức được trao tặng huy chương nhiều thứ nhì thế giới sau Pháp.[292][293]
Đức là một trong các quốc gia dẫn đầu thế giới về thể thao ô tô, các hãng nhưBMW vàMercedes là nhà sản xuất nổi bật của thể thao ô tô.Porsche giành chiến thắng giải đua 24 giờ tại Mans trong 17 lần vàAudi 13 lần (tính đến năm 2015[cập nhật]). Tay đuaMichael Schumacher từng lập nhiều kỷ lục thể thao ô tô trong sự nghiệp của mình, giành 7 chứcvô địch thế giới đua xe công thức một. Ông là một trong các vận động viên được trả lương cao nhất trong lịch sử.[295]Sebastian Vettel cũng nằm trong số 5 tay đua công thức một thành công nhất mọi thời đại.[296]
^Từ 1952 đến 1990, toàn bộ bài "Deutschlandlied" đều là quốc ca, nhưng chỉ có khổ ba được chọn hát vào những dịp chính thức. Từ năm 1991, chỉ có khổ ba được chọn làm quốc ca chính thức.[1]
^Berlin là Thủ đô Hiến pháp duy nhất đồng thời là trụ sởtrên thực tế của cơ quan chính phủ, còn cố đô lâm thờiBonn của Cộng hòa Liên bang Đức sở hữu danh hiệu "thành phố liên bang" (Bundesstadt) và là trụ sở của sáu bộ cơ quan chính phủ.[2]
^Theo Hiệp ước Potsdam ngày 1 tháng 8 năm 1945 thì nước Đức đã bị chia cắt ra thành 4 khu vực chiếm đóng nhưng thực ra là đại diện cho 2 khối ý thức hệ mà sau này đã đối đầu với nhau.
^The Latin nameSacrum Imperium (Holy Empire) is documented as far back as 1157. The Latin nameSacrum Romanum Imperium (Holy Roman Empire) was first documented in 1254. The full name "Holy Roman Empire of the German Nation" (Heiliges Römisches Reich Deutscher Nation) dates back to the 15th century.
^Hendry, Lisa (ngày 5 tháng 5 năm 2018)."Who were the Neanderthals?" (bằng tiếng Anh). Natural History Museum.Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 3 năm 2020.
^The lumping of Germanic people into the generic term 'Germans' has its roots in the Investiture Controversy according to historian Herwig Wolfram, who claimed it was a defensive move made by the papacy to delineate them as outsiders, partly due to the papacy's insecurity and so as to justify counterattacks upon them. See:Wolfram, Herwig (1997).The Roman Empire and its Germanic Peoples. California University Press. tr. 11–13.
^For a general discussion of the impact of the Reformation on the Holy Roman Empire, seeHajo Holborn,A History of Modern Germany, The Reformation, Princeton N.J., Princeton University Press, 1959, chapters 6–9 (pp. 123–248).
^Black 2005, tr. 202.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBlack2005 (trợ giúp)
^Olusoga, David and Erichsen, Casper W (2010). The Kaiser's Holocaust. Germany's Forgotten Genocide and the Colonial Roots of Nazism. Faber and Faber.ISBN 978-0-571-23141-6
^"Industrie und Wirtschaft" (bằng tiếng Đức). Deutsches Historisches Museum.Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
^Steinberg, Heinz Günter (1991).Die Bevölkerungsentwicklung in Deutschland im Zweiten Weltkrieg: mit einem Überblick über die Entwicklung von 1945 bis 1990 (bằng tiếng Đức). Kulturstiftung der dt. Vertriebenen.ISBN978-3-88557-089-9.
^"World War II: Key Dates". United States Holocaust Memorial Museum.Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2020.
^Institute of National Remembrance (Poland), Polska 1939–1945 Straty osobowe i ofiary represji pod dwiema okupacjami. Materski and Szarota. page 9 "Total Polish population losses under German occupation are currently calculated at about 2 770 000".
^abMaksudov, S. (1994). "Soviet Deaths in the Great Patriotic War: A Note". Europe-Asia Studies 46 (4): 671–680.
^"Brennpunkt: Hauptstadt-Umzug".Focus (bằng tiếng Đức). ngày 12 tháng 4 năm 1999.Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
^"Lisbon Treaty: The making of". Council of the European Union.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2011.After signature by all 27 Heads of State and governments, the Treaty will travel back to Brussels, where it will be officially sealed with the seals of the 27 Member States, on the 18th of December. Then, it will be sent to Rome, the Italian government being the depository of the Treaties.
^"Aims of German development policy". Federal Ministry for Economic Cooperation and Development. ngày 10 tháng 4 năm 2008.Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2011.
^"Demographic Transition Model". Barcelona Field Studies Centre. ngày 27 tháng 9 năm 2009.Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
^"Chapter 2: Wie viele Muslime leben in Deutschland?".Muslimisches Leben in Deutschland (bằng tiếng Đức). Bundesamt für Migration und Flüchtlinge. tháng 6 năm 2009. tr. 80, 97.ISBN978-3-9812115-1-1.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
^"Religionen in Deutschland: Mitgliederzahlen" (bằng tiếng Đức). Religionswissenschaftlicher Medien- und Informationsdienst. ngày 31 tháng 10 năm 2009.Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
^"Sprechen Sie Deutsch?".The Economist. ngày 18 tháng 3 năm 2010.Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
^ab"Country profile: Germany"(PDF). Library of Congress. tháng 4 năm 2008.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
^Health Care Systems in Transition: Germany(PDF). European Observatory on Health Care Systems. 2000. tr. 8. AMS 5012667 (DEU).Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
^"Lưu trữ từ World Bank".World Bank. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2020.{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^abLavery, Scott; Schmid, Davide (2018).Frankfurt as a financial centre after Brexit(PDF) (Báo cáo). SPERI Global Political Economy Brief. University of Sheffield.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2020.
^"Autobahn-Temporegelung" (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Đức).ADAC. tháng 6 năm 2010.Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2011.
^"Overview/Data: Germany". U.S. Energy Information Administration. ngày 30 tháng 6 năm 2010.Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2011.
^"Preparations for operation of Wendelstein 7-X starting". PhysOrg. ngày 13 tháng 5 năm 2014.Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2014.Max Planck Institute for Plasma Physics (IPP) in Greifswald in May started the preparations for operation of this the world's largest fusion device of the stellarator type.
^John Kmetz; Ludwig Finscher; Giselher Schubert; Wilhelm Schepping; Philip V. Bohlman (ngày 20 tháng 1 năm 2001). "Germany, Federal Republic of".Grove Music Online.doi:10.1093/gmo/9781561592630.article.40055.
^Marzona, Daniel. (2005)Conceptual Art. Cologne: Taschen. Various pages
^David Jenkinson;Günther Binding; Doris Kutschbach; Ulrich Knapp; Howard Caygill; Achim Preiss; Helmut Börsch-Supan; Thomas Kliemann; April Eisman; Klaus Niehr; Jeffrey Chipps Smith; Ulrich Leben; Heidrun Zinnkann; Angelika Steinmetz; Walter Spiegl; G. Reinheckel; Hannelore Müller; Gerhard Bott; Peter Hornsby; Anna Beatriz Chadour; Erika Speel; A. Kenneth Snowman; Brigitte Dinger; Annamaria Giusti; Harald Olbrich; Christian Herchenröder; David Alan Robertson; Dominic R. Stone; Eduard Isphording; Heinrich Dilly (ngày 10 tháng 12 năm 2018). "Germany, Federal Republic of".Grove Art Online.doi:10.1093/gao/9781884446054.article.T031531.ISBN978-1-884446-05-4.
^Jan Koppmann, "Das Zeitalter des Barock", in M. Thierer (ed.),Lust auf Barock: Himmel trifft Erde in Oberschwaben, Lindenberg: Kunstverlag Fink, 2002, p. 11f.
^Wilhelm Süvern: 1971.Torbögen und Inschriften lippischer Fachwerkhäuser in Volume 7 of Heimatland Lippe. Lippe Heimatbund: 1971. 48 pages
^Heinrich Stiewe: 2007.Fachwerkhäuser in Deutschland: Konstruktion, Gestalt und Nutzung vom Mittelalter bis heute. Primus Verlag: 2007.ISBN 978-3-89678-589-3. 160 pages
^"Annual Report"(PDF). International Publishers Association. tháng 10 năm 2014. tr. 13.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
^Purchese, Robert (ngày 17 tháng 8 năm 2009)."Germany's video game market". Eurogamer.net.Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012.
^"Press releases". gamescom Press Center. 2014.Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
^Studio BabelsbergLưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2011 tạiWayback Machine –Mit der Erschließung des direkt in der Nachbarschaft befindlichen Filmgeländes mit den Studios Neue Film 1 und Neue Film 2 konnte Studio Babelsberg seine Studiokapazitäten verdoppeln und verfügt so über Europas größten zusammenhängenden Studiokomplex., retrieved ngày 3 tháng 12 năm 2013 (German)
^"Numbers, data, facts about the organic food sector" (bằng tiếng Đức). Foodwatch.Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2015.Bio-Produkte machen lediglich 3,9 Prozent des gesamten Lebensmittelumsatzes in Deutschland aus (2012).
^"German Wine Statistics". Wines of Germany, Deutsches Weininstitut.Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2014.
Bowman, Alan K.; Garnsey, Peter; Cameron, Averil (2005).The crisis of empire, A.D. 193–337. The Cambridge Ancient History. Quyển 12. Cambridge University Press. tr. 442.ISBN0-521-30199-8.
Carlin, Wendy (1996). "West German growth and institutions (1945–90)". Trong Crafts, Nicholas; Toniolo, Gianni (biên tập).Economic Growth in Europe Since 1945. Cambridge University Press. tr. 464.ISBN0-521-49964-X.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Mangold, Max, biên tập (1995).Duden, Aussprachewörterbuch (bằng tiếng Đức) (ấn bản thứ 6). Dudenverlag. tr. 271, 53f.ISBN978-3-411-20916-3.
Marten, Thomas; Sauer, Fritz Joachim, biên tập (2005).Länderkunde – Deutschland, Österreich, Schweiz und Liechtenstein im Querschnitt [Regional Geography – An Overview of Germany, Austria, Switzerland and Liechtenstein] (bằng tiếng Đức). Inform-Verlag. tr. 7.ISBN3-9805843-1-3.
Nicholls, AJ (2016). "1919–1922: Years of Crisis and Uncertainty".Weimar and the Rise of Hitler. Macmillan. tr. 56–70.ISBN978-1-349-21337-5.
Rother, Rainer (ngày 1 tháng 7 năm 2003).Leni Riefenstahl: The Seduction of Genius. Bloomsbury Publishing.ISBN1441159010.
Roberts, J. M. (2002).The New Penguin History of the World. Allen Lane. tr. 1014.ISBN978-0-7139-9611-1.
Rüger, C. (2004) [1996]."Germany". Trong Bowman, Alan K.; Champlin, Edward; Lintott, Andrew (biên tập).The Cambridge Ancient History: X, The Augustan Empire, 43 B.C. – A.D. 69. Quyển 10 (ấn bản thứ 2). Cambridge University Press. tr. 527–28.ISBN978-0-521-26430-3.Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2016.
Trần Văn Chánh (2014).Từ điển Hán-Việt — Hán ngữ cổ đại và hiện đại. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa. tr. 2421.
Wagner, G. A; Krbetschek, M; Degering, D; Bahain, J.-J; Shao, Q; Falgueres, C; Voinchet, P; Dolo, J.-M; Garcia, T; Rightmire, G. P (ngày 27 tháng 8 năm 2010). "Radiometric dating of the type-site for Homo heidelbergensis at Mauer, Germany".PNAS. Quyển 107 số 46. tr. 19726–19730.Bibcode:2010PNAS..10719726W.doi:10.1073/pnas.1012722107.PMC2993404.PMID21041630.
Wells, Peter (2004).The Battle That Stopped Rome: Emperor Augustus, Arminius, and the Slaughter of the Legions in the Teutoburg Forest. W. W. Norton & Company. tr. 13.ISBN978-0-393-35203-0.
Winter, JM (2003). "Demography of the war". Trong Dear, I; Foot, M (biên tập).The Oxford Companion to World War II . Oxford University Press.ISBN9780191727603.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
Zippelius, Reinhold (2006) [1994].Kleine deutsche Verfassungsgeschichte: vom frühen Mittelalter bis zur Gegenwart [Brief German Constitutional History: from the Early Middle Ages to the Present] (bằng tiếng Đức) (ấn bản thứ 7). Beck. tr. 25.ISBN978-3-406-47638-9.