Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Động vật chân vây

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từĐộng vật chân màng)
Động vật Chân màng
Thời điểm hóa thạch:Cuối thế Oligocenthế Holocen,24–0 triệu năm trước đây
Theo chiều kim đồng hồ từ bên trái:Hải cẩu lông New Zealand (Arctocephalus forsteri),hải tượng phương nam (Mirounga leonina),sư tử biển Steller (Eumetopias jubatus),moóc (Odobenus rosmarus) vàhải cẩu xám (Halichoerus grypus)
Phân loại khoa học
Vực(domain)Eukaryota
Giới(regnum)Animalia
Ngành(phylum)Chordata
NhánhCraniata
Phân ngành(subphylum)Vertebrata
Lớp(class)Mammalia
Phân lớp(subclass)Theria
Phân thứ lớp(infraclass)Placentalia
Bộ(ordo)Carnivora
Phân bộ(subordo)Caniformia
Phân thứ bộ(infraordo)Arctoidea
Tiểu bộ(parvordo)Pinnipedimorpha
NhánhPinnipediformes
Liên họ(superfamilia)Pinnipedia
Illiger, 1811[1]
Bản đồ phân bố
Bản đồ phân bố
Cácliên họhọ

– Họ tuyệt chủng -

Động vật chân màng hayđộng vậtchân vây (Pinnipedia) (từtiếng Latinhpinna "vây" vàpes, pedis "chân"[2]) lànhánh đa dạng và phân bố rộng rãi gồm cácđộng vật ăn thịt, chân vây, sống bán thủy sinh. Cáchọ còn sinh tồn làOdobenidae (thành viên duy nhất còn tồn tại làmoóc),Otariidae (hải cẩu có tai, gồmhải cẩu lôngsư tử biển) vàPhocidae (hải cẩu thật sự). Có 33 loài còn sinh tồn, và hơn 50 loài đã tuyệt chủng đã được mô tả từ các hóa thạch. Dù động vật chân màng từng được cho rằng có nguồn gốc từ hai dòng tổ tiên, bằng chứng phân tử chứng minh chúng là một dòng dõiđơn ngành (hậu duệ của một dòng tổ tiên). Động vật chân màng thuộcbộ Ăn thịt và các họ hàng gần nhất của chúng làgấuliên họ Chồn (chồn,gấu mèo,chồn hôi, vàgấu trúc đỏ), các nhóm này tách ra khỏi nhau khoảng 50 triệu năm trước.

Kích thước dao động từhải cẩu Baikal (1 m (3 ft 3 in) và 45 kg (99 lb)) tớihải tượng phương nam (5 m (16 ft) và 3.200 kg (7.100 lb)). Nhiều loài thể hiệndị hình giới tính. Chúng có cơ thể thuôn và bốn chi biến thànhchân chèo.Otariidae dùng chi trước để đẩy bản thân trong nước, trong khiPhocidaeOdobenidae lại sử dụng hai chi sau. Otariidae và Odobenidae có thể dùng chi sau làm chân để đi lại trên cạn, Phocidae lại di chuyển cồng kềnh hơn trên mặt đất. Otariidae có cặp tai ngoài dễ thấy, hai họ còn lại không có. Động vật chân màng có những giác quan phát triển—thị giác và thính giác thích nghi có cả trên cạn và dưới nước, hệ thống xúc giác đặc biệt nhạy trên lông mũi (hay râu). Vài loài có khả nặng lặn tới độ sâu lớn. Chúng có một lớp mỡ dưới da để giữ ấm trong nước lạnh, và tất cả đều có lông (trừ moóc).

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Illiger, Johann Karl Wilhelm; Baird, Spencer Fullerton; Dwight, Jonathan; Giebel, C. (Christoph); Kellogg, Remington; Mathews, Gregory M. (Gregory Macalister); Möbius, Karl August; Richmond, Charles Wallace; Tucker, Marcia Brady (1811).Caroli Illigeri D. Acad. Reg. Scient. Berolinens. et Bavaricae Sod. Museo Zoologico Berolin. praefecti professoris extraord. Prodromus systematis mammalium et avium : additis terminis zoographicis utriusque classis, eorumque versione germanica. Smithsonian Libraries. Berolini : Sumptibus C. Salfeld.
  2. ^Elias, J. S. (2007).Science Terms Made Easy: A Lexicon of Scientific Words and Their Root Language Origins. Greenwood Publishing Group. tr. 157.ISBN 978-0-313-33896-0.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Động_vật_chân_vây&oldid=73493200
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp