Độ hòa tan là một đặc điểm hòa tan củachất rắn,chất lỏng hoặcchất khí vàodung môi để tạo ra mộtdung dịch đồng nhất. Độ hòa tan của một chất phụ thuộc chủ yếu vào cáctính chất vật lý vàhóa học của chất tan và dung môi cũng nhưnhiệt độ,áp suất vàpH của dung dịch. Hiếu theo nghĩa rộng hơn độ hòa tan của một chất trong một dung môi nhất định được đo đạc bằngnồng độ bão hòa, bão hòa ở đây có nghĩa là việc thêm nhiều chất tan sẽ không làm tăng nồng độ của dung dịch và bắt đầu xuất hiệnkết tủa của một lượng chất tan dư.
Chất khí hòa tan thể hiện những ứng xử phức tạp hơn theo nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng, khí thường trở nên ít hòa tan trong nước ( đến tối thiểu, dưới 120°C cho hầu hết các khí phổ biến[1]), nhưng hòa tan nhiều hơn trong các dung môi hữu cơ.[2]
Đồ thị thể hiện các đường cong hòa tan của một số muối vơ cơ ở dạng rắn (nhiệt độ tính theo độCelsius).[3]
Độ hòa tan của cáchợp chất vô cơ gần như luôn tăng theo nhiệt độ. phụ thuộc vào độ hòa tan khác nhau của các chất tan trong các dung môi nóng và lạnh.
Đối với các pha nén (rắn và lỏng), sự phụ thuộc vào áp suất của độ hoà tan đặc biệt yếu và thường bị bỏ qua trong thực tế. Giả thiết một dung môi lý tưởng, sự phụ thuộc có thể xác định theo:với i là các nhân tố thành phần, Ni là tỷ lệmol của thành phần thứ ith trong dung dịch, P là áp suất, T là hằng số nhiệt độ, Vi,aq làthể tích mol riêng phần của phần tử thứ i trong dung dịch, Vi,cr là thể tích mol riêng phần của phần tử thứ ith trong chất rắn hòa tan, và R làhằng số khí lý tưởng.[4]
Sự phụ thuộc áp suất của độ hòa tan thỉnh thoảng có ý nghĩa thiết thực. Ví dụ, sự nhiễm bẩn lắng đọngcalci sulfat trong các mỏ và giếng dầu (làm giảm độ hòa tan của nó khi giảm áp suất) có thể làm giảm khả năng khai thác theothời gian.