Cây đậu nành là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu nành được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thànhđậu phụ, ép thànhdầu đậu nành,nước tương, làm bánh kẹo,sữa đậu nành,tào phớ,okara... đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.[3]
Ngoài ra, trong cây đậu nành còn có tác dụng cải tạo đất, tăng năng suất các cây trồng khác. Điều này có được là hoạt động cố định N2 của loàivi khuẩnRhizobium cộng sinh trên rễ cây họ Đậu.
Hạt của rất nhiều giống đậu tương phục vụ cho các mục đích khác nhau.
ChiGlycine từng đượcCarl Linnaeus đưa ra năm 1737 trong ấn bản đầu tiên của quyểnGenera Plantarum.Từ glycine có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp -glykys (ngọt) và có thể đề cập đến chất ngọt của củ ăn được sản xuất ở Bắc Mỹ có dạng cây đậu thân leo,Glycine apios, nay làApios americana. Đậu tương được trồng được xuất hiện đầu tiên trong quyểnSpecies Plantarum của Linnaeus, với tên gọiPhaseolus max L. Việc kết hợpGlycine max (L.) Merr., theo đề nghị của Merrill năm 1917, đã trở thành tên gọi chính thức được công nhận của loài này.
ChiGlycine Willd. được chia thành 2 phân chiGlycine vàSoja. Phân chiSoja (Moench) F.J. Herm. bao gồm cây đậu tương được trồng trọtGlycine max (L.) Merr., và cây đậu dạiGlycine soja Sieb. & Zucc. Cả hai loài đều là các loài cây hàng năm.Glycine soja là tổ tiên hoang dại củaGlycine max, và chúng mọc hoang ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và Nga.[4]Phân chiGlycine bao gồm ít nhất 25 loài cây dại lâu năm, ví dụ nhưGlycine canescens F.J. Herm. vàG. tomentella Hayata, cả hai được tìm thấy ở Úc vàPapua New Guinea.[5][6]
Cũng giống như các loài cây trồng khác có thời gian thuần hóa lâu dài, mối quan hệ giữa các loài đậu tương hiện đại và các loài mọc hoang có thể không còn dấu vết ở bất kỳ mức độ chắc chắn nào.
Đậu tương được trồng phổ biến ở Đông Nam Á, Bắc và Nam Mỹ.
Quê hương của đậu tương làĐông Nam Á, nhưng 45% diện tích trồng đậu tương và 55% sản lượng đậu tương của thế giới nằm ởMỹ. Nước Mỹ sản xuất 75 triệu tấn đậu tương năm 2000, trong đó hơn một phần ba được xuất khẩu. Các nước sản xuất đậu tương lớn khác làBrasil,Argentina,Trung Quốc vàẤn Độ. Phần lớn sản lượng đậu tương của Mỹ hoặc để nuôi gia súc, hoặc để xuất khẩu, mặc dù tiêu thụ đậu tương ở người trên đất nước này đang tăng lên. Dầu đậu tương chiếm tới 80% lượngdầu ăn được tiêu thụ ở Mỹ.
Đậu tương là một trong số các cây lương thực đã có nhiều giống được cải biến di truyền (GMO) nhằm tăng năng suất. Hiện nay, khoảng 80% lượng đậu tương được trồng phục vụ thương mại đều làGMO. Công tyMonsanto là công ty hàng đầu thế giới hiện nay trong sản xuất cây chuyển gen nói chung và đậu tương chuyển gen nói riêng.
† Tỷ lệ phần trăm được ước tính dựa trênkhuyến nghị Hoa Kỳ dành cho người trưởng thành,[8] ngoại trừ kali, được ước tính dựa trên khuyến nghị của chuyên gia từHọc viện Quốc gia.[9]
Trong hạt đậu tương có các thành phần hoá học sauProtein (40%),lipid (12-25%),glucid (10-15%); có các muối khoángCa,Fe,Mg,P,K,Na,S; cácvitamin A, B1, B2, D, E, F; các enzyme, sáp, nhựa,cellulose.
Các thực phẩm làm từ đậu tương được xem là một loại "thịt không xương" vì chứa tỷ lệ đạm thực vật dồi dào, có thể thay thế cho nguồn đạm từ thịt động vật. Thậm chí, lượng đạm (protein) trong 100 gr đậu tương có thể tương đương với lượng đạm trong 800 gr thịt bò.
Tại các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, 60% lượng đạm tiêu thụ hằng ngày là do cây đậu tương cung cấp, thông qua các loại thực phẩm nhưđậu hũ,đậu hũ thối,sữa đậu nành... Hàm lượng chất đạm chứa trong đậu tương cao hơn nhiều so với lượng chất đạm chứa trong các loại đậu khác.
^Hymowitz, Theodore (ngày 9 tháng 8 năm 1995). "Evaluation of Wild Perennial Glycine Species and Crosses For Resistance to Phakopsora". Trong Sinclair, J.B.; Hartman, G.L. (biên tập).Proceedings of the Soybean Rust Workshop. Urbana, IL: National Soybean Research Laboratory. tr. 33–37.{{Chú thích hội thảo}}:|ngày truy cập= cần|url= (trợ giúp)
^Newell, C. A.; Hymowitz, T. (tháng 3 năm 1983). "Hybridization in the Genus Glycine Subgenus Glycine Willd. (Leguminosae, Papilionoideae)".American Journal of Botany. Quyển 70 số 3. Botanical Society of America. tr. 334–348.doi:10.2307/2443241.JSTOR2443241.
^Jim Deacon."The Nitrogen cycle and Nitrogen fixation". Institute of Cell and Molecular Biology, The University of Edinburgh.Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2013.
^National Academies of Sciences, Engineering, and Medicine; Health and Medicine Division; Food and Nutrition Board; Committee to Review the Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium (2019). Oria, Maria; Harrison, Meghan; Stallings, Virginia A. (biên tập).Dietary Reference Intakes for Sodium and Potassium. The National Academies Collection: Reports funded by National Institutes of Health. Washington (DC): National Academies Press (US).ISBN978-0-309-48834-1.PMID30844154.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)