| Định Tường | |
|---|---|
| Tỉnh | |
Vị trí của tỉnh Định Tường trên bản đồ hành chính Việt Nam Cộng hòa năm 1967 | |
| Vị trí | Việt Nam Cộng hòa |
| Tỉnh lỵ | thành phốMỹ Tho |
| Phân chia hành chính | 1 thành phố, 8 quận |
| Thành lập | 1832 |
| Giải thể | 24/2/1976[1] |
| Diện tích | 1.640 km² |
| Dân số (1967) | 518.646 người |
| Mật độ dân số | 316 người/km² |
Định Tường là một trong batỉnh cũ ở miền Đông Nam Kỳ và là một trong sáu tỉnh đầu tiên ởNam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh) vào thờiNhà Nguyễn độc lập vàViệt Nam Cộng hòa. Nay là một phần củaĐồng Tháp.
Tỉnh Định Tường có vị trí địa lý:
Tỉnh Định Tường nằm dọc theo bờ Bắcsông Tiền Giang theo hướng cánh cung Tây Bắc – Đông Đông Nam, từCampuchia raBiển Đông.
Tỉnh Định Tường có thành phốMỹ Tho và 8 quận:Bến Tranh,Cái Bè,Cai Lậy,Châu Thành,Chợ Gạo, Giáo Đức, Hậu Đức, Sầm Giang.
| Dân số tỉnh Định Tường năm 1967[2] | |
|---|---|
| Quận | Dân số |
| Bến Tranh | 65.301 |
| Cái Bè | 86.161 |
| Cai Lậy | 107.879 |
| Châu Thành | 107.698 |
| Chợ Gạo | 49.099 |
| Giao Đức | 54.598 |
| Long Định | 47.910 |
| Tổng số | 518.646 |
Tỉnh Định Tường được thành lập năm 1832 dưới triềuNhà Nguyễn bởi vuaMinh Mạng. Tỉnh Định Tường bị giải thể dưới thời Pháp thuộc và sau đó lại được chính quyềnViệt Nam Cộng hòa tái lập, tồn tại trong giai đoạn 1956–1975. Tỉnh Định Tường khi xưa có địa giới nằm ở vùng Đông Nam Bộ (cùng với Gia Định và Biên Hòa là bộ ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ), tuy nhiên vị trí tại tỉnh này từ 1976 đến ngày nay lại thuộc vùng Tây Nam Bộ (tứcĐồng bằng sông Cửu Long).
Vùng đất Định Tường trước đây thuộc nướcChân Lạp, nay thuộc địa bàn các tỉnhTiền Giang,Long An,Bến Tre vàĐồng Tháp ngày nay.
Địa bàn tỉnh Định Tường xưa là đấtMỹ Tho nằm giữasông Tiền và sông Hưng Hòa (tức sôngVàm Cỏ Tây) gồm hết vùng bưngĐồng Tháp Mười bao la rộng lớn. Tiềm năng nông nghiệp thực vô cùng to lớn đối với cả nước. Từ trên 200 năm trước, đã được khai thông kinh Vũng Gù (cũng gọi làbảo Định hà) và rạch Chanh làm đường vận chuyển và thủy lợi để khai thácĐồng Tháp Mười. Ngày nay, gần toàn thể tỉnhĐồng Tháp, phần lớn tỉnhTiền Giang và khoảng 1/3 diện tích tỉnhLong An nằm trên địa bàn tỉnh Định Tường xưa. Nơi đây là một vựa lúa khổng lồ ở Nam Bộ và rất đáng kể đối với toàn quốc. Tuy nhiên địa bàn Định Tường đã trải qua một quá trình duyên cách khá phức tạp, cần được xem xét thật kỹ lưỡng.
Trịnh Hoài Đức đã ghi:"Đất Định Tường khi đầu khai thác, nhân dân chia ra nhiều mối thống thuộc... vì cáchBiên Hòa, Phiên An xa xăm hiểm trở, không thể gấp lấy pháp luật ràng buộc, vậy nên phải trù hoạch nhiều phương, lập ra sổ sách biệt nạp (cho tùy tiện nộp vào các kho, như Mỹ Tho có kho Tam Lịch)... Lại lập ra trang, trại, man, nậu để thâu thập dân chúng, đều tùy theo nghề nghiệp mà nạp thuế cho có thống thuộc, cốt yếu về việc mở mang ruộng đất trồng tỉa hoa lợi mà thôi, như vậy tuy thấy có sự phức tạp, nhưng tựu trung đều có giường mối". Cách cai trị lỏng lẻo ở vùng đất mới như vậy kể là khôn ngoan và thực tế.
Vào thế kỷ XVII, cácChúa Nguyễn ra lệnh khai phá, đặt thành đất Vũng Cù (Đồng Tháp Mười) vàMỹ Tho.
Năm 1679, viên tướng Nhà Minh làDương Ngạn Địch cùng thuộc hạ vượt biển xin cư trú tại đây, Chúa Nguyễn cho họ lập làng, ấp ởMỹ Tho cùng với người Việt di dân khẩn hoang (tạo thành 9 "trường biệt nạp" là: Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Gian Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Cạnh, Tân Thịnh).[3]
Năm 1772,Chúa Nguyễn sai quan trấnGia Định đem đấtMỹ Tho lập thành đạo Trường Đồn, đặt chức Cai cơ, Thơ ký để cai trị.
NămBính Thân (1776), đất Định Tường (Trường Đồn) thuộc quản lý củaNhà Tây Sơn (Nguyễn Lữ).
Đến nămMậu Tuất (1778),Nguyễn Ánh chiếm lại được đất Trường Đồn từ tayNguyễn Lữ củaNhà Tây Sơn.
Năm 1779, Nguyễn Ánh gộp 9 trường biệt nạp để lập ra huyện Kiến Khương thuộc dinh Trường Đồn, đặt chức Lưu thủ, Cai bộ và Kỷ lục để cai trị.
Năm 1781, đổi tên Trường Đồn thành dinh Trấn Định.
Năm 1806, đổi tên huyện Kiến Khương thành huyện Kiến An.
ThờiNhà Nguyễn, nămGia Long thứ 7 (1808), cải dinh Trấn Định thành trấn Định Tường thuộc tổng trấnGia Định, thăng huyện Kiến An thành phủ Kiến An, thăng 3 tổng sở thuộc làm huyện Kiến Hưng, huyện Kiến Hòa và huyện Kiến Đăng.
NămMinh Mạng thứ 13 (1832), thành lập tỉnh Định Tường.
Khoảng năm 1820,Trịnh Hoài Đức đã đưa ra bản danh mục phân ranh hành chính của trấn Định Tường. Khi ấy tổng Hòa Bình còn gồm cả những thôn sau này được tách ra làm huyện Tân Hòa rồi được sáp nhập vào phủ Tân An thuộc trấn Phiên An. Trấn Định Tường khi đó gồm một phủ duy nhất là phủ Kiến An, bên dưới bao gồm có 3 huyện chia thành 6 tổng với 314 thôn, ấp.
| Đơn vị hành chính trấn Định Tường | ||
|---|---|---|
| STT | Tên | Tổng |
| 1 | Huyện Kiến Đăng |
|
| 2 | Huyện Kiến Hưng |
|
| 3 | Huyện Kiến Hòa |
|

Năm Gia Long thứ 5 (1806), Nhà Nguyễn đổi tên huyện Kiến Khang thành huyện Kiến An thuộc trấn Định Tường.
Năm 1808, thăng huyện Kiến An thành phủ Kiến An với 3 huyện mới (trước là tổng) là: Kiến Hưng, Kiến Hòa, Kiến Đăng.
NămMinh Mạng thứ 13 (1832), thành tỉnh Định Tường (chữ Hán:定祥(省)) và là một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh). Lập thêm huyện Tân Hòa thuộc phủ Kiến An, tách từ đất huyện Kiến Hòa.
Năm 1833, tỉnh thành Định Tường thất thủ vào tayLê Văn Khôi, Nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp và lấy lại được thành.
| Đơn vị hành chính phủ Kiến An, tỉnh Định Tường năm 1836 | ||
|---|---|---|
| STT | Tên | Tổng |
| 1 | Huyện Kiến Đăng |
|
| 2 | Huyện Kiến Hòa |
|
| 3 | Huyện Kiến Hưng |
|
Năm Minh Mạng 19 (1838), Lập một phủ mới mang tên Kiến Tường, trích huyện Kiến Đăng thành 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Phong cho vào phủ Kiến Tường.
NămThiệu Trị thứ 1 (1841), Thiệu Trị cắt huyện Tân Hòa từ phủ Kiến An, nhập sangtỉnh Gia Định.
Thời vuaTự Đức (1847–1862), tỉnh Định Tường gồm 2 phủ với 4 huyện: Kiến Hưng, Kiến Hòa (phủ Kiến An), Kiến Đăng, Kiến Phong (phủ Kiến Tường). Tỉnh thành Định Tường ban đầu là đồn Trấn Định ở thôn Tân Lý Tây giồng Kiên Định huyện Kiến Khang (tức thôn Tân Hiệp huyện Kiến Hưng, đến thờiGia Long thì chuyển đến thôn Mỹ Chánh huyện Kiến Hòa, nămMinh Mạng thứ 7, rời về địa phận 2 thôn Điều Hòa và Bình Biên huyện Kiến Hưng.
Phủ Kiến An: lỵ sở nằm ở vị trí là đồn Trấn Định cũ tại thôn Tân Hiệp huyện Kiến Hưng, dựng năm1833.
Phủ Kiến Tường: lỵ sở ở thôn Mỹ Trà (Cao Lãnh) huyện Kiến Phong từ năm1838.
Theo thống kê đầy đủ, trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tỉnh Định Tường có tỉnh lỵ đặt tạiMỹ Tho, gồm 2 phủ trực thuộc như sau:

Năm 1859, Pháp xâm chiếmthành Gia Định.
Năm 1861, Pháp đánh chiếmGia Định,Biên Hòa, Định Tường,Vĩnh Long.
ThờiPháp thuộc (1862–1945), theoHiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, tỉnh Định Tường cùng vớiBiên Hòa vàGia Định bị cắt nhượng choPháp đô hộ.
Năm 1863, thực dân Pháp đặt viên chức cai trị, song vẫn giữ phân ranh hành chính cũ của tỉnh Định Tường.
Năm 1869, sau 2 năm chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây (gồmVĩnh Long,An Giang vàHà Tiên), Pháp còn giữ 6 tỉnh nhưng chia cắt lại các phủ huyện lệ thuộc. Như tỉnh Định Tường đổi làtỉnh Mỹ Tho và coi 4 hạt (inspection):Mỹ Tho (huyện Kiến Hưng cũ),Chợ Gạo (huyện Kiến Hòa cũ),Bến Tre (phủ Hoằng Trị trực thuộc tỉnhVĩnh Long cũ),Cai Lậy (huyện Kiến Đăng cũ). Còn hạt Cần Lố (huyện Kiến Phong cũ) thì lại chuyển sang cho tỉnhVĩnh Long cai quản.
Năm 1872, thực dân Pháp bỏ hẳn cả hệ thống hành chính lục tỉnh và phủ huyện cũ.Nam Kỳ được chia thành 18 hạt và 2 thành phố (Sài Gòn, Chợ Lớn). Địa bàn tỉnh Định Tường chia ra cho 5 hạt: toàn hạtMỹ Tho (nằm trên 3 huyện Kiến Hưng, Kiến Hòa, Kiến Đăng cũ), một nửaĐồng Tháp Mười cho hạtTân An (lấy đất tổng Hưng Long của huyện Kiến Hưng cũ), nửa còn lại (huyện Kiến Phong cũ) chia nhau cho 3 hạtChâu Đốc,Long Xuyên vàSa Đéc.
Ngày 5 tháng 1 năm 1876, các hạt Thanh tra được thay bằng hạt Tham biện và tỉnh Định Tường chính thức bị Pháp giải thể:
Ngày 20 tháng 12 năm 1899,Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ởNam Kỳ thành tỉnh. Địa bàn tỉnh Định Tường cũ chia ra thành 5 tỉnh giống như thời kỳ trước đây:Mỹ Tho,Tân An,Châu Đốc,Long Xuyên vàSa Đéc. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1956.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thốngViệt Nam Cộng hòaNgô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh số 143-NV[7] về việc:
Ngày 24 tháng 4 năm 1957, chính quyềnViệt Nam Cộng hòa ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh. Tỉnh Định Tường có tỉnh lỵ đặt tạiMỹ Tho, bao gồm 7 quận.
Trong đó, các quậnBến Tranh,Cai Lậy,Cái Bè,Châu Thành vàChợ Gạo trước năm 1956 cùng thuộc tỉnhMỹ Tho cũ. Riêng 2 quậnGò Công vàHòa Đồng lại thuộc tỉnhGò Công cũ, đặc biệt quận Gò Công lúc bấy giờ chính là quận Châu Thành của tỉnhGò Công trước đây.
Ngày 5 tháng 12 năm 1957, dời quận lỵ quậnBến Tranh từ xã Lương Hòa Lạc đến xã Tân Hiệp.
| Đơn vị hành chính tỉnh Định Tường năm 1957 | |||
|---|---|---|---|
| STT | Quận | Quận lỵ | Tổng |
| 1 | Châu Thành | Xã Điều Hòa |
|
| 2 | Bến Tranh | Xã Lương Hòa Lạc |
|
| 3 | Chợ Gạo | Xã Bình Phan |
|
| 4 | Cái Bè | Xã Đông Hòa Hiệp |
|
| 5 | Cai Lậy | Xã Thanh Hòa |
|
| 6 | Gò Công | Xã Long Thuận |
|
| 7 | Hòa Đồng | Xã Đồng Sơn | Hòa Đông Thượng có 14 xã: Bình Phú Đông, Bình Phục Nhì, Đông Sơn, Thành Công (Bình Thành và Bình Công cũ), Thạnh Nhựt, Thạnh Trị (Vĩnh Thạnh vã Vĩnh Trị cũ), Vĩnh Bình (Vĩnh Lợi và Bình Phú Tây cũ), Vĩnh Hựu, Vĩnh Viễn, Bình Luông Đông, Long Hưu, Phú Thạnh Đông, Tân Thới (cù lao Tào), Yên Luông (Yên Luông Đông và Yên Luông Tây cũ) |
Ngày 8 tháng 11 năm 1960, quận Châu Thành đổi tên thành quận Long Định, đồng thời dời quận lỵ từ xã Điều Hòa tới xã Long Định.
Ngày 9 tháng 8 năm 1961, tách đất quậnCái Bè lập quận mới Giáo Đức, quận lỵ tại xã An Hữu, gồm 2 tổng: Phong Phú với 5 xã; An Phú (mới lập) với 5 xã. Quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Quận Cai Lậy đổi tên thành quận Khiêm Ích.
Ngày 20 tháng 12 năm 1963, chính quyềnViệt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh về việc tái lập tỉnhGò Công, tỉnh lỵ đặt tạiGò Công, gồm 2 quận: Châu Thành (đổi tên từ quận Gò Công) và Hòa Đồng với 4 tổng, 31 xã. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnhMỹ Tho trước năm 1956, tuy nhiênViệt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên gọi tỉnh Định Tường cho vùng đất này đến năm 1975.
Ngày 23 tháng 5 năm 1964, chia quận Long Định thành 2 quận: Châu Thành và Long Định.
Ngày 10 tháng 11 năm 1964, đổi lại tên quận Sùng Hiếu thành quậnCái Bè, quận Khiếm Ích thành quậnCai Lậy như cũ.
Sau năm 1965, các tổng giải thể, các xã trực thuộc các quận.
Ngày 24 tháng 3 năm 1969, chính quyềnViệt Nam Cộng hòa đổi tên quận Long Định (tỉnh Định Tường) thành quận Sầm Giang.
Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướngViệt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 114/SL-NV về việc cải biến xã Điều Hòa thuộc quận Châu Thành thành thị xãMỹ Tho – là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Định Tường. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường và tỉnh Gò Công là ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính củaViệt Nam Cộng hòa.
| Đơn vị hành chính tỉnh Định Tường năm 1970 | |||
|---|---|---|---|
| STT | Quận | Xã | |
| 1 | Bến Tranh | 15 xã: Hòa Tịnh, Lương Hòa Lạc, Mỹ Tịnh An, Phú Kiết, Phú Mỹ, Tân Bình Thạnh, Tân Hiệp, Tân Hòa Thành, Tân Hội Đông, Tân Hương, Tân Lý Đông, Tân Lý Tây, Thanh Bình, Thân Cửu Nghĩa, Trung Hòa | |
| 2 | Cái Bè | 11 xã: Đông Hòa Hiệp, Hậu Mỹ, Hậu Thành, Hiệp Đức, Hòa Khánh, Hội Cư, Hội Sơn, Mỹ Thành, Mỹ Thiện, Phú An, Xuân Sơn | |
| 3 | Cai Lậy | 20 xã: Bình Phú, Cẩm Sơn, Long Khánh, Long Tiên, Long Trung, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Mỹ Long, Mỹ Phước Tây, Ngũ Hiệp, Nhị Mỹ, Nhị Quý, Phú Nhuận Đông, Phú Quý, Tam Bình, Tân Bình, Tân Hội, Tân Phú Đông, Thạnh Hòa, Thạnh Phú | |
| 4 | Châu Thành | 11 xã: Bình Đức, Đạo Thạnh, Long An, Mỹ Phong, Phước Thạnh, Tam Hiệp, Tân Long, Tân Mỹ Chánh, Thạnh Phú, Thới Sơn, Trung An | |
| 5 | Chợ Gạo | 11 xã: An Thạnh Thủy, Bình Ninh, Bình Phan, Bình Phục Nhứt, Đăng Hưng Phước, Hòa Định, Long Bình Điền, Qươn Long, Song Bình, Tân Thuận Bình, Xuân Đông | |
| 6 | Giáo Đức | 10 xã: An Hữu, An Thái Đông, An Thái Trung, Hòa Lộc, Hưng Thuận, Mỹ Đức Đông, Mỹ Đức Tây, Mỹ Lợi, Mỹ Lương, Thanh Hưng | |
| 7 | Sầm Giang | 14 xã: Bàn Long, Bình Trưng, Điềm Hy, Dưỡng Điềm, Đông Hòa, Hữu Đạo, Hưng Thạnh Mỹ, Kim Sơn, Long Định, Long Hưng, Nhị Bình, Phú Phong, Song Thuận, Vĩnh Kim | |
Ngày 12 tháng 7 năm 1974, lập quận mới Hậu Đức thuộc tỉnh Định Tường, quận lỵ tại Thiên Hộ, xã Hậu Mỹ trở thành một phần của quận Hậu Đức, do tách một phần đất của các quậnCái Bè, Giáo Đức,Cai Lậy cùng tỉnh Định Tường, quận Kiến Bình (tỉnhKiến Tường) và của quận Mỹ An (tỉnhKiến Phong). Các đơn vị hành chính của quận Hậu Mỹ chưa sắp xếp xong thì chính quyềnViệt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tuy nhiên chính quyềnMặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thờiCộng hòa Miền Nam Việt Nam) vàViệt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên cũ là tỉnhMỹ Tho.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 245-NQ/TW[8] về việc hợp nhất tỉnhGò Công, tỉnhMỹ Tho và thành phốMỹ Tho thành một tỉnh mới.
Ngày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định số 3/NQ/1976[1] về việc hợp nhất tỉnhGò Công, tỉnhMỹ Tho và thành phốMỹ Tho thành tỉnhTiền Giang.
| Tiền nhiệm: TỉnhMỹ Tho | Tỉnh Định TườngVNCH 1956–1976 | Kế nhiệm: TỉnhTiền Giang |