Địa lí hayĐịa lí học (hay còn gọi tắt làđịa) (Tiếng Anh:geography,tiếng Hy Lạp:γεωγραφία,đã Latinh hoá: geographia, nghĩa là "mô tả Trái Đất"[1]) ngành giáo dục cũ của Việt Nam còn gọi làĐịa dư, là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng trênTrái Đất.[2] Dịch sát nghĩa sẽ là "nhằm mô tả hoặc viết về Trái Đất". Người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ này làEratosthenes (276–194 TCN).[3] Bốn lĩnh vực truyền thống nghiên cứu về địa lý là phân tích không gian của tự nhiên và các hiện tượng con người (như các nghiên cứu về phân bố),nghiên cứu khu vực, nghiên cứu về mối quan hệ con người đất, và nghiên cứu vềKhoa học Trái Đất.[4] Địa lý hiện đại mang tính liên ngành bao gồm tất cả những hiểu biết trước đây về Trái Đất và tất cả những mối quan hệ phức tạp giữa con con người và tự nhiên - không chỉ đơn thuần là nơi có các đối tượng đó, mà còn về cách chúng thay đổi và đến được như thế nào. Địa lý đã được gọi là "ngành học về thế giới" và "cầu nối giữa con người vàkhoa học vật lý". Địa lý được chia thành hai nhánh chính:Địa lý nhân văn vàđịa lý tự nhiên.[5][6][7]
Các bản đồ thế giới cổ nhất từng được biết đến có tuổi vào thờiBabylon cổ vào thế kỷ IX TCN.[8] Bản đồ thế giớiBabylonia nổi tiếng nhất làImago Mundi vào 600 TCN.[9] Bản đồ đượcEckhard Unger tái lập thể hiện vị trí củaBabylon ởEuphrates, bao bọc xung quanh là các vùng đất có hình tròn gồmAssyria,Urartu[10] và một vài thành phố, các thành phố và vùng đất bên ngoài lại được bao bọc bởi một con sông (Oceanus), có 7 hòn đảo xung quanh nó tạo thành một hình sao 7 đỉnh. Các văn bản kèm theo đề cập đến 7 khu vực bên ngoài đại dương bao la. Trong các miêu tả thì có 5 trong số đó vẫn còn tồn tại.[11] Ngược lại vớiImago Mundi, mộtbản đồ thế giới Babylon trước đó có tuổi vào thể kỷ 9 TCNd mô tả Babylon nằm về phía bắc từ trung tâm thế giới, mặc dù nó không xác định rõ ràng cái gì là trung tâm.[8]
Theo cách tiếp cận, địa lý được chia thành hai nhánh chính: địa lý chung và địa lý khu vực. Địa lý nói chung là phân tích và nghiên cứu vật lý và địa lý nhân văn, trong khi các khu vực địa lý là súc tích và giải quyết các hệ thống lãnh thổ cụ thể. Tuy nhiên, sự kết nối giữa hai ngành có truyền thống là một vấn đề của cuộc tranh luận trongđịa lý.
Địa lý khu vực là nghiên cứu về các khu vực trên thế giới. Chú ý đến đặc điểm độc đáo của một vùng cụ thể như các yếu tố tự nhiên, yếu tố con người, và khu vực bao gồm các kỹ thuật phân định không gian vào khu vực.
Địa lý trong khu vực cũng là một phương pháp nhất định để nghiên cứu địa lý, địa lý so sánh với số lượng hoặc vị trí địa lý quan trọng. Cách tiếp cận này chiếm ưu thế trong nửa sau của thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, một thời gian khi mô hình địa lý sau đó khu vực là trung tâm trong các ngành khoa học địa lý. Sau đó bị chỉ trích vì tính miêu tả của nó và thiếu cơ sở lý thuyết. Chỉ trích mạnh mẽ trong những năm 1950 và cuộc cách mạng về số lượng. Các nhà chỉ trích chính là G. H. T. Kimble[12] andFred K. Schaefer.[13]
Địa lý tự nhiên là một phân ngành của địa lý chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu hệ thống hóa các mô hình và quá trình diễn ra trongthủy quyển,sinh quyển,khí quyển, thổ quyển vàthạch quyển. Nó có ý định giúp người ta hiểu sự sắp xếp tự nhiên của Trái Đất, khí hậu và các kiểu mẫu hệthực vật vàđộng vật của nó. Nhiều lĩnh vực của địa lý tự nhiên sử dụng các kiến thức củađịa chất học, cụ thể là trong nghiên cứu vềphong hóa vàxói mòn. Địa chất học các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời, xem bàiĐặc trưng địa chất của hệ Mặt Trời.
Địa lý tự nhiên trong vai trò của một ngành khoa học thông thường tương phản và bổ sung cho ngành khoa học chị em của nó làĐịa lý nhân văn.
Địa lý nhân văn là một trong 2 phân ngành của địa lý. Địa lý nhân văn là một nhánh củakhoa học xã hội nghiên cứu về thế giới, con người, cộng đồng và văn hóa[14] có sự nhấn mạnh mối liên hệ của không gian và vị trí địa lý. Địa lý nhân văn khác vớiđịa lý tự nhiên chủ yếu tập trung nhiều vào nghiên cứu các hoạt động của con người và dễ tiếp thu các phương pháp nghiên cứu định lượng hơn.
Eratosthenes (276TCN - 194TCN) - người tính toán kích thước (chu vi, đường kính xích đạo) gần đúngTrái Đất, đưa ra khái niệmĐịa lý (Geographica) và vẽ tấmbản đồthế giới đầu tiên, được mệnh danh là "Cha đẻ của Địa lý học".
Ptolemy (khoảng 90–khoảng 168) người hoàn thiện và đề xuất "thuyết Địa tâm" (thuyết cho rằng Trái Đất là trung tâmvũ trụ,Mặt Trời,Mặt Trăng và cácthiên thể khác đều chuyển động xung quanhTrái Đất), vẽ những tấm bản đồ thế giới với độ chính xác cao (trong thời điểm bấy giờ), bổ sung thêm nhiều địa danh mới.
^Bonnett, AlastairWhat is Geography? Luân Đôn, Sage, 2008
^abKurt A. Raaflaub & Richard J. A. Talbert (2009).Geography and Ethnography: Perceptions of the World in Pre-Modern Societies.John Wiley & Sons. tr. 147.ISBN1405191465.
^Johnston, Ron (2000). "Human Geography". Trong Johnston, Ron; Gregory, Derek; Pratt, Geraldine; Watts, Michael (biên tập).The Dictionary of Human Geography. Oxford: Blackwell. tr. 353–360.