Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Đền Hiển Trung

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đền Hiển Trung, tên chữ làHiển Trung từ, tục gọi làmiếu Công Thần; khi xưa tọa lạc trên phần đất của làng Tân Triêm, thuộc trấnGia Định xưa (nay thuộcQuận 1,Thành phố Hồ Chí Minh,Việt Nam). Ngày nay ngôi đền đã không còn vì đã bị quânPháp phá bỏ trước năm1954.[1]

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Theo sáchHoàng Việt long hưng chí, sau khi lấy được thànhDiên Khánh (Ất Mão,1795),"Thế Tổ (chỉ chúaNguyễn Phúc Ánh, sau này là vuaGia Long) saibộ Lễ ghi tên các công thần trận vong và ốm chết từ khi trung hưng cho tới chiến dịch Diên Khánh, lập đền Hiển Trung ởGia Định".[2]

SáchGia Định thành thông chí củaTrịnh Hoài Đức (hoàn thành dưới triềuGia Long), chép tương tự và cho biết thêm, trích:

"Đền Hiển Trung cách Trấn thự về phía nam 5dặm, ở phía tây đường cái quan. NămẤt Mão (1795) dựng để thờ các công thần khai sáng trung hưng, năm Giáp TýGia Long thứ 3 (1804),[3] vâng chỉ sửa lại, thờ...Tánh Quốc côngVõ Tánh,...Chu Quận côngNgô Tùng Châu, bày thần vị ở chính giữa, ngoài ra thì theo thứ tự bày ở tả hữu, ghi ở Hội điểnbộ Lễ. Xuân thu hai kỳ tế, lệ có 25 lệ phu[4]

Đến triềuThiệu Trị (1846 hoặc1847),[5] đền Hiển Trung được nhà vua cho tu bổ lại.

Bốn ngôi chùa bị quân Pháp chiếm làm đồn (màu vàng) nhằm tạo thành "chiến tuyến các ngôi chùa" (lignes des pagodes) để chuẩn bị tấn côngĐại đồn Chí Hòa (màu cam) của quân Việt vàotháng 2 năm1861.

Tháng 2 năm1859,thành Gia Định mất vào tay quân Pháp. Sau đó, họ nhanh chóng chiếm lấy các ngôi chùa cổ để làm đồn gọi là "phòng tuyến chùa chiền" (lignes des pagodes), gồm:chùa Khải Tường (pagode de Barbe),chùa Kiểng Phước (pagode des Clochetons),chùa Cây Mai (pagode des Pruniers), đền Hiển Trung... Lúc bấy giờ,người Pháp gọi ngôi đền này làpagode de la Fidelite Eclatante (chùa Hiển Trung) hayPagode des Mares (chùa Ao).

Sau khiGia Định trở thành lãnh địa củaPháp theoHòa ước Nhâm Tuất (1862), ở khu vựcchùa Kim Chương,người Pháp lập Sở nuôi ngựa, và lập ở khu vực đền Hiển Trung một trại lính (tức thành Ô Ma, Camp aux Mares),[6] khiến ngôi đền nằm gọn trong vòng thành.

Năm1927, sau khi đã được ghi vào sổ bộ các cổ tích của Trường Viễn Đông bác cổ (nay làViện Viễn Đông Bác cổ), đền Hiển Trung đã được nhà trường vừa kể xuất tiền trùng tu lại. Qua năm1939 (ngày10 tháng 11dương lịch),triều đình Huế có biệt phái một đại thần vào đây tế tự[7]

Tang thương biến đổi, ngôi đền đã hư tệ sẵn bởi thời gian, lại thêm nỗi cáclính tập củaPháp cùng vợ con của họ"đến ăn ở nơi đây không lòng bảo tồn" (Vương Hồng Sển) nên hầu hết những bài vị đều bị xiêu lạc. Đến thời quânNhật Bản hoành hành một lúc, rồi đến lượt đạo binh viễn chinh Pháp trở lại chiếm thành Ô Ma sau khi Nhật Bản đầu hàng, thì họ triệt hạ đền Hiển Trung lúc nào không rõ, bất chấp đó là một di tích hiếm có trong Nam.[7] Học giảVương Hồng Sển kể:

"Đền nầy được trường Viễn Đông Bác Cổ liệt kê vào sổ cổ tích, tưởng nhờ vậy mà được tồn tại, không ngờ đến năm1954 thì đã không còn! Riêng tôi được đến viếng một phen năm1947 với ông Pierre Dupont, nhơn viên Trường Bác Cổ, khi ấy đền đã bị mối ăn hư hao nhiều rồi, qua năm1950, tôi có trở lại viếng với ông Bernard Phillipe Groslier là quản thủ Pháp của viện Bảo Tàng Sài Gòn. Chúng tôi đề nghị cấp tốc sửa chữa đền, nhưng cơ quan nhà binh Pháp không thuận giao trả đền cho Trường Bác Cổ, một hai rằng đền ở trên lãnh thổ nhà binh thì thuộc quyền nhà binh định đoạt! Tưởng việc đâu còn đó, và trong trí tôi đinh ninh nhớ đền ở mé gần đường Võ Tánh cứ đứng ngoài rào, ngay chỗ giáp mối đườngNguyễn Cư Trinh (Marchand) cũ ngó vói qua tường thì thấy nóc đền. Không dè qua năm1955, chúng tôi trở lại đây với nhơn viên Viện Khảo Cổ, thì đã sao dời vật đổi, đền đâu chẳng thấy, một viên gạch nhỏ cũng không còn, đừng nói chi một bộ kèo trính rường cột chạm trổ tỉ mỉ...[8].

Theo đây, thì lúc bấy giờ đền Hiển Trung ở chỗ "giáp mối" giữa đườngVõ Tánh (thời Pháp là đường Frère Louis, sau đó là đường Võ Tánh, và nay là đườngNguyễn Trãi)[9] với đườngNguyễn Cư Trinh (thời Pháp là đường Marchand, sau đó là đường Nguyễn Cư Trinh cho đến nay). Và vì ngôi đền đã bị phá hủy từ lâu, thêm không có tài liệu nào mô tả lại, nên không rõ lối kiến trúc của công trình ấy như thế nào.[10]

Thờ cúng

[sửa |sửa mã nguồn]

Lúc sơ khởi, trong đền Hiển Trung thờ 1015 vị công thần, liệt kê như sau:

Ngoài ra, bên ở hai bên hông đền còn có các bàn thờ số còn lại, trong đó có một người Pháp là Chưởng vệ Mạn Hòe (Manuel).[12]

Về sau, trong số 1015 vị công thần này, có 361 vị được chuyển ra thờ trong các đền Trung Hưng, Trung Tiết ởHuế, và đền Bảo Trung ởKhánh Hòa... Đến khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, đền Hiển Trung không ai chăm sóc, vuaTự Đức bèn truyền đem hết số vị còn lại ra thờ ở Ân Tự, thuộc thôn Vĩ Dạ (huyệnHương Thủy, tỉnhThừa Thiên).[13]

Thông tin thêm

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Theo sáchGia Định thành thông chí, thì ở gần Đền Hiển Trung có một ngôi đền cũng được xây dưới thờiGia Long, mang tên làMiếu Hội đồng hayMiếu Thánh, trích:
Ngôi miếu "cách trấn thự về phía nam 5 dặm rưỡi, ở phía tây đường cái quan, lúc mới mở cõi dựng miếu để thờ linh thần trong hạt, miếu sở rộng rãi, án đẳng đẹp đẽ, nay vẫn để vậy. Xuân thu hai kỳ tế, lệ có 50 lễ sinh hiệu, 25 miếu phu, trước miếu có cây đa rườm rà to đến hai vầng ôm, hành khách đi lại nhiều người nghỉ ở dưới gốc cây".[14]
Đến thời củaTrương Vĩnh Ký, thì ngôi đền này cũng"bị các sĩ quan cai quản (và) lính tập chiếm đóng". Theo ông, thì ngôi đền"mằm ở phía trước tường rào và giữa hai hồsen tỏa hương thơm ngào ngạt cho cả đoạn đường vua thường ngự qua". Và"trước mặt hai ngôi đó (Đền Hiển Trung và Miếu Hội đồng), bên vệ đường ở đầu và cuối ranh giới, có dựng hai cột trụ ghi chữ 'Khuynh cái, Hạ mã' (bỏ nón, xuống ngựa) để tỏ lòng tôn kính".[15] Theo tác giả Nguyễn Thanh thì Miếu Hội đồng bị quân Pháp xóa mất dấu tích khoảng năm1855.[16] Trung úy Hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của tướng Leonard Charner trong đoàn viễn chinh đánhSài Gòn năm1861 đã viết về ngôi miếu này như sau:
"Chùa Ao[17] trước kia rất nổi tiếng vì là nơi hành hương cho những người đi buôn bán từMỹ Tho trở về. Chùa có hai ao nên gọi là chùa Ao, một lớn một nhỏ, nước dơ bẩn, thường thấy thỉnh thoảng có xuất hiện loạicá sấu caiman.[18]

Sách tham khảo chính

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Trịnh Hoài Đức,Gia Định thành thông chí in trongTổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3), Nhà xuất bản Thanh Niên, 2011.
  • Trương Vĩnh Ký, "Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận" (Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú thích) in trongTổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 4), Nhà xuất bản Thanh Niên, 2011.
  • Vương Hồng Sển,Sài Gòn năm xưa, Nhà xuất bảnThành phố Hồ Chí Minh, 1991.
  • Huỳnh Minh,Gia Định xưa, Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin tái bản năm 2006.
  • Nguyễn Thanh,Thành phố bất khuất. Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1984.

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^TheoVương Hồng Sển,Sài Gòn năm xưa, tr. 156 và 219.
  2. ^Ngô Giáp Đậu,Hoàng Việt long hưng chí, Nhà xuất bản Văn học, 1993, tr. 212.
  3. ^Về sau, sáchQuốc triều sử toát yếu cũng đã chép rằng:"NămGiáp Tý (1804)tháng 6 (âm lịch), (nhà vua) sắc chobộ Lễ bàn định về việc 1015 người tử tế được dự tế trong đền Hiển Trung, giao cho các quan trấn chế bàn vị mà thờ" (phần "Chính biên", tr. 88). Những "người tử tế" ở đây, theoVương Hồng Sển, đó là những "tử sĩ liều mình vì nước trong các trận chốngTây Sơn" (Sài Gòn năm xưa, tr. 155).
  4. ^Gia Định thành thông chí (quyển 6: Thành trì chí, mục: "Trấn Phiên An") in trongTổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 3), tr. 279.
  5. ^Huỳnh Minh (Gia Định xưa, tr. 55) ghi là1846, Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa, tr. 218) ghi là1847.
  6. ^Ô Ma có lẽ là từ nửa gốcKhmer nửa gốcPháp. Ô là "vũng, bàu", Ma do từ tổ Camp aux Mares (trại lính nơi có nhiều ao). Thời thuộc Pháp, đây là khu quân sự của họ. Về sau, thuộc Tổng nha Cảnh sát củaViệt Nam Cộng hòa. Hiện nay, là cơ quan của Bộ Công an, thuộc phườngNguyễn Cư Trinh,Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh (theo PGS. TS. Lê Trung Hoa và Nguyễn Đình Tư,Sổ tay địa danh Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ, 2012, tr. 145).
  7. ^abSài Gòn năm xưa, tr. 156.
  8. ^Sài Gòn năm xưa, tr. 156 và tr. 219.
  9. ^Trước1975,Sài Gòn có hai đường Võ Tánh: một thuộc Phú Nhuận (gần khu mộ Võ Tánh, nay là đườngHoàng Văn Thụ), một là phần thuộc quận 1 của đườngNguyễn Trãi hiện nay.
  10. ^Căn cứ lời kể của Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa, tr. 219) và Bản đồThành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2007.
  11. ^Nguyễn Tấn Huyên (? - 1801), không rõ thân thế, chỉ biết khi Võ Tánh tuẫn tiết trong thànhBình Định, ông cũng nhảy vào lửa chết theo nên được thờ chung (Quốc triều sử toát yếu, tr. 65).
  12. ^Mạn Hòe là một võ tướng của chúa Nguyễn, mang quốc tịch Pháp, đã tử trận khi đánh nhau với quân Tây Sơn tại Thất Kỳ Giang (tứcsông Ngã BảyCần Giờ,Sài Gòn) vào nămNhâm Dần (1782). Theo Nguyễn Lương Bích- Phạm Ngọc Phụng,Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, xb Quân đội Nhân dân, 1977, tr. 66.
  13. ^Lược ghi theoGia Định xưa, tr. 53-55.
  14. ^Sách đã dẫn, tr. 279.
  15. ^Theo Trương Vĩnh Ký, "Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận" (Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú thích) in trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 4), Nhà xuất bản Thanh Niên, 2011, tr. 112. Chữ trong ngoặc là nguyên văn của tác giả.
  16. ^Thành phố bất khuất, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 145.
  17. ^Gọi là chùa Ao, vì ngôi miễu nằm giữa hai hồ sen. Có khi quân Pháp gọi là "temple des Grands Dignitaires" (đền thờ của các chức sắc lớn). Xem:[1].
  18. ^Léopold Pallu,Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861. Nói thêm: Nước ao dơ bẩn, vì lúc đó sen đã tàn lụi hết. "Caiman" là tên của một loạicá sấu.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đền_Hiển_Trung&oldid=74529248
Thể loại:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp