Trong suốtThời đại Khám phá vàothế kỷ XV và XVI,Tây Ban Nha vàBồ Đào Nha là hai quốc gia châu Âu đi tiên phong trong đứng đầu phong trào thám hiểm thế giới và trong quá trình đó họ đã thiết lập các đế quốc hải ngoại lớn. Đố kỵ với sự thịnh vượng vô cùng lớn cùng nhiều lợi ích riêng mà hai đế quốc thực dân này giành được, các nước Anh,Pháp vàHà Lan bắt đầu thiết lập các thuộc địa và các mạng lưới mậu dịch của họ tạichâu Mỹ,châu Á vàChâu Phi.[5] Một loạt cuộc chiến vớiPháp vàHà Lan trongthế kỷ XVII vàXVIII đã giúp Anh trở thành một cường quốc chi phối thống trị tạiBắc Mỹ vàẤn Độ. Nhưng đồng thời, uy thế của nước Anh (và cảPháp[6]) bị hạn chế tạichâu Âu sau năm1763, trước sự phát triển lớn mạnh của cáccường quốc phía Đông nhưPhổ,Áo vàNga.[7][8]
Sự kiệnMười ba thuộc địa tại Bắc Mỹ giành được độc lập vào năm1783 sau cuộcChiến tranh Cách mạng Mỹ khiến cho nước Anh mất đi một số thuộc địa lâu đời nhất và đông dân nhất của mình. Ngay sau đó nước Anh nhanh chóng chuyển sự quan tâm sangchâu Phi, châu Á vàThái Bình Dương. Sauthất bại của nướcPháp trong cuộcchiến tranh Napoléon (1803 – 1815), nước Anh tận hưởng một thế kỷ thống trị hầu như không có đối thủ, và mở rộng phạm vi trên khắptoàn cầu.[9] Địa vị thống trị của Anh sau này được ca ngợi như làPax Britannica (Thái bình Anh Quốc), một giai đoạn mà châu Âu và thế giới tương đối thái bình (1815 – 1914), đây là thời điểm mà nước Anh nắm quyềnbá chủ toàn cầu và tự tuyên bố họ là "người canh giữ chohoà bình thế giới".[10][11][12][13] Vào đầu thể kỷ 19, cuộcCách mạng công nghiệp bắt đầu biến đổi nước Anh; tại thời điểm diễn ra cuộc "Đại Triển Lãm" vào năm 1851, nước Anh được ca ngợi như là "công xưởng của thế giới".[14] Đế quốc Anh còn bành trướng đến Ấn Độ, phần lớnChâu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới. Cùng với sự kiểm soát chính thức của nước Anh đối với các thuộc địa riêng của mình, nó còn thống trị gần như toàn bộ nền thương mại của thế giới đồng nghĩa với việc là nó kiểm soát nền kinh tế của nhiều khu vực khác nhưchâu Á vàMỹ Latinh.[15][16]
Tại nước Anh, những quan điểm chính trị đã thay đổi theo hướng ủng hộ chính sách tự do thương mại cùng chính sách tự do và phổ cập hoá đặc quyền bầu cử. Vào thế kỷ XIX, dân số của nước Anh đã gia tăng một cách mạnh mẽ, cùng với đó quá trình đô thị hoá nhanh chóng mà gây nên những căng thẳng nghiêm trọng về cả kinh tế cũng như xã hội.[17] Để tìm kiếm các thị trường và các nguồn tài nguyên mới,Đảng Bảo thủ dưới thờiBenjamin Disraeli đã khởi động một kỷ nguyên mới của chủ nghĩa bành trướng đế quốc tạiAi Cập,Nam Phi và nhiều nơi khác. Nhiều thuộc địa nhưCanada,Úc vàNew Zealand được trao quyền tự trị, một vài trong số đó được tái phân loại là quốc gia tự trị.[18]
Đến đầuthế kỷ XX, sự phát triển lớn mạnh củaĐế quốc Đức vàHoa Kỳ dẫn đến sự uy hiếp lớn đến phần nào vị thế dẫn đầu về kinh tế của nước Anh. Chính sách đối ngoại của Anh quốc tập trung vào mối quan hệ hợp tác chặt chẽ và hữu nghị với Hoa Kỳ, nhưng những căng thẳng về vấn đề ngoại giao và quân sự khiến quan hệ với nước Đức ngày càng trở nên xấu đi và là nguyên nhân chính dẫn đến cuộcchiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ diễn ra cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Anh đã phải dựa nhiều vào đế quốc của mình về mặt nhân sự cũng như lương thực. Cuộc chiến này đã tạo ra một gánh nặng to lớn cả về mặt quân sự, tài chính và nguồn nhân lực cho nước Anh. Mặc dù sau cuộc chiến này, cương thổ của Đế quốc Anh đã được mở rộng lên tới cực điểm, bản thân nó đã không còn giữ được vị thế như là một cường quốc vô song về quân sự và công nghiệp được nữa. TrongChiến tranh thế giới lần hai, các thuộc địa của Anh tạiĐông Nam Á đã bịNhật Bản chiếm đóng, điều này đã làm cho uy tín của đế quốc Anh bị suy giảm nghiêm trọng và đẩy nhanh quá trình sụp đổ của Đế quốc này. Sau chiến tranh, Anh phải trao quyền độc lập cho các thuộc địa của mình, trong đó đông dân và giá trị nhất làẤn Độ. Trong những năm còn lại củathế kỷ XX, phần lớn những thuộc địa của Đế quốc Anh giành được độc lập như một phần của phong trào phithuộc địa hóa từ các cường quốc châu Âu, sau đó Đế quốc Anh cáo chung với việc chuyển giaoHồng Kông choTrung Quốc vào năm 1997.[19][20][21][22]14 lãnh thổ ở hải ngoại hiện vẫn thuộc chủ quyền của Anh. Sau độc lập, nhiều thuộc địa của Anh gia nhập khốiThịnh vượng chung các Quốc gia, một hiệp hội tự do của các quốc gia độc lập. 16 quốc gia có chung mộtngười lãnh đạo duy nhất, Quốc vươngCharles III, đó mới là chính thứcVương quốc Khối thịnh vượng chung.
Một mô hình củatàu Matthew, chiếc thuyền mà thuyền trưởngJohn Cabot dùng để đếnTân thế giới trong chuyến hành trình thứ hai của mình
Nền móng của Đế quốc Anh bắt đầu được xây dựng từ khiAnh vàScotland còn là hai vương quốc riêng biệt. Sau những thành công củaTây Ban Nha vàBồ Đào Nha trong việc thám hiểm hải ngoại, đến năm 1496 Quốc vươngHenry VII của Anh đã ủy quyền choJohn Cabot dẫn đầu một cuộc hành trình khám phá một tuyến đường tới châu Á thông quaBắc Đại Tây Dương.[23] Cabot khởi hành năm 1497, tức 5 năm sau khingười châu Âu phát hiện châu Mỹ, và mặc dù ông ta đã đặt chân lên bờ biển củaNewfoundland, họ đã không có bất kỳ nỗ lực nào để thiết lập nên một thuộc địa tại nơi đây (cũng nhưCristoforo Colombo, ông nhầm tưởng rằng mình đến được châu Á).[24] Cabot còn dẫn đầu một chuyến đi khác đến châu Mỹ vào năm sau, nhưng sau đó không còn nghe được tin tức gì về các tàu của ông nữa.[25]
Người Anh đã không tiếp tục nỗ lực nhằm thiết lập các thuộc địa tại châu Mỹ cho đến khi Nữ vươngElizabeth I trị vì trong những thập niên cuối của thế kỷ XVI.[26] Vào thời điểm này, cuộcCải cách Tin Lành khiến cho Anh và vương quốc Tây Ban Nha theoCông giáo trở thành kẻ thù của nhau.[23] Năm 1562,Elizabeth I đã khuyến khích các thuyền trưởng hải tặc nhưJohn Hawkins vàFrancis Drake tiến hành các cuộc tấn công bắt nô lệ chống lại tàuTây Ban Nha vàBồ Đào Nha ngoài khơi bờ biển Tây Phi[27] với mục tiêu là thâm nhập vào việcbuôn bán nô lệ Đại Tây Dương. Nỗ lực này bị người Tây Ban Nha đẩy lui, và đến khi cuộc chiến tranh Anh – Tây Ban Nha trở nên khốc liệt, Elizabeth lại chống lưng cho các tàu lùng tiếp tục tổ chức các cuộc tấn công vào các cảng Tây Ban Nha ở châu Mỹ và những tàu vận chuyển vượtĐại Tây Dương trở về Tây Ban Nha vốn được chất đầy kho báu củaTân thế giới.[28] Trong khi đó, những nhà văn có ảnh hưởng nhưRichard Hakluyt vàJohn Dee (người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "British Empire")[29] bắt đầu thúc giục thành lập một đế quốc riêng của nước Anh. Đến thời điểm này, Tây Ban Nha đã trở thành thế lực chiếm ưu thế tại châu Mỹ,Bồ Đào Nha đã thiết lập các cơ sở mậu dịch và các tiền đồn từ bờ biển châu Phi vàBrasil sangTrung Quốc, cònPháp đã bắt đầu thuộc địa hóa khu vực sôngSaint-Laurent và nơi này sau đó trở thànhTân Pháp.[30]
Mặc dù Anh đi sau các cường quốc châu Âu khác trong việc thiết lập các thuộc địa hải ngoại, nhưng trong thế kỷ XVI, họ đã tiến hành đưa những người Tin Lành từ Anh và Scotland đến Ireland, tiếp nối tiền lệngười Norman xâm chiếm Ireland vào năm 1169.[31][32] Nhiều người đóng góp vào công cuộcthuộc địa hóa Ireland cũng đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc thuộc địa hóa tại Bắc Mỹ vào ban đầu, đặc biệt là một nhóm được gọi là "những người đàn ông miền Tây".[33]
Năm 1578, Nữ vươngElizabeth I đã ban một giấy phép choHumphrey Gilbert tiến hành các cuộc khám phá và thám hiểm hải ngoại.[34] Năm đó, Gilbert khởi hành điTây Ấn với ý định tham gia vào việc cướp biển và thiết lập một thuộc địa tại Bắc Mỹ, nhưng chuyến đi bị hủy bỏ trước khi thuyền vượt quaĐại Tây Dương.[35][36] Năm 1583, ông ta bắt tay vào một nỗ lực thứ hai, lần này tới được đảoNewfoundland và tuyên bố chủ quyền cảng của đảo này thuộc về Anh, mặc dù không để bất cứ người định cư nào ở lại. Gilbert sau đó đã qua đời trong chuyến đi trở về nước Anh. Sự nghiệp của ông được người em trai cùng mẹ khác cha của mình làWalter Raleigh kế tục, ông ta cũng đã được Elizabeth I cấp giấy phép vào năm 1584. Trong năm đó, Raleigh đã cho thiết lập mộtthuộc địa tại đảo Roanoke trên bờ biểnBắc Carolina ngày nay, tuy nhiên do thiếu đồ dự trữ nên thuộc địa thất bại.[37]
Năm 1603, Quốc vươngJames VI của Scotland trở thànhvua của nước Anh và một năm sau đó, ông đàm phán với ngườiTây Ban Nha ký vàoHiệp ước Luân Đôn, chấm dứt tình trạng thù địch bấy lâu nay. Lúc này, nước Anh ở trong trạng thái hòa bình với đại kình địch của nó, người Anh đã chuyển dần sự quan tâm của họ từ việc cướp bóc cơ sở hạ tầng thuộc địa của các quốc gia khác sang việc thành lập các thuộc địa hải ngoại.[38] Đế quốc Anh bắt đầu thành hình vào đầu thế kỷ XVII, khi nước Anh tiến hành thuộc địa hóaBắc Mỹ và các đảo nhỏ trong vùngCaribe, cùng với đó là việc thành lập những công ty tư nhân, đáng chú ý nhất làCông ty Đông Ấn Anh, để quản lý các thuộc địa và mậu dịch hải ngoại. Thời kỳ này kéo dài cho đến khiMười ba thuộc địa giành được độc lập sau khi cuộcchiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ kết thúc vào cuốithế kỷ XVIII và được các sử gia gọi là "Đế quốc Anh đầu tiên".[39]
Caribe ban đầu có các thuộc địa quan trọng và sinh lợi nhất cho Anh,[40] sau khi nhiều nỗ lực thuộc địa hóa vùng này bị thất bại. Một nỗ lực nhằm lập một thuộc địa tạiGuyana chỉ kéo dài trong vòng hai năm và mục tiêu chính của nó là tìm kiếm các mỏ vàng đã bị thất bại.[41] Các thuộc địaSt Lucia (1605) vàGrenada (1609) cũng nhanh chóng bị hủy bỏ, nhưng các khu định cư đã được thiết lập thành công tạiSt. Kitts (1624),Barbados (1627) vàNevis (1628).[42] Các thuộc địa nhanh chóng tuân theo hệ thống các đồn điền trồng mía mà ngườiBồ Đào Nha áp dụng thành công tạiBrasil, hệ thống này dựa trên lao độngnô lệ và ban đầu dựa vào các tàu củaHà Lan tới để bán nô lệ và mua đường.[43] Để đảm bảo rằng nguồn lợi nhuận đang ngày càng tăng lên của hoạt động thương mại này vẫn nằm trong tay người Anh, năm 1651 Quốc hội rasắc lệnh rằng chỉ có tàu Anh mới được phép qua lại để giao dịch trong các thuộc địa của Anh. Điều này dẫn đến tình trạng thù địch với Hà Lan và bùng nổ một loạtcác cuộc chiến giữa Anh và Hà Lan, cuối cùng đã giúp củng cố vị thế của Anh tại châu Mỹ và làm mất uy thế của Hà Lan.[44] Năm 1655, Anh sáp nhập hòn đảoJamaica từ tay của người Tây Ban Nha và thành công trong việc thuộc địa hóaBahamas vào năm 1666.[45]
Thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ, 1763–1776
Khu định cư lâu dài đầu tiên của người Anh tại châu Mỹ được thành lập tạiJamestown vào năm 1607, dưới sự lãnh đạo của thuyền trưởngJohn Smith và chịu sự quản lý củaCông ty Virginia. Nước Anh tiếp đó tiến hành xâm chiếm và tuyên bố chủ quyền đối vớiBermuda sau khikỳ hạm của công ty đắm tại đây vào năm 1609 và đến năm 1615 quần đảo này được chuyển giao sangcông ty Đảo Somers.[46] Đặc quyền củaCông ty Virginia bị thu hồi vào năm 1624 và vùng đấtVirginia nằm dưới sự cai quản trực tiếp của nhà vua, tiếp theo sau đóthuộc địa Virginia được thành lập.[47]Công ty Luân Đôn và Bristol được thành lập vào năm 1610 với mục đích lập ra một khu định cư lâu dài trênđảo Newfoundland, nhưng nói chung là không thành công.[48] Năm 1620,Plymouth được thành lập để làm nơi cư trú cho những người theo chủ trương phân lập củaThanh giáo mà sau này được biết đến là nhữngngười hành hương.[49] Sau này, chạy trốn khỏi ngược đãi tôn giáo trở thành động cơ để nhiều người Anh muốn trở thành người khai hoang, họ phải mạo hiểm trong hành trình gian khổ để vượt Đại Tây Dương:Maryland được thành lập vào năm 1634 để làm nơi cư trú của giáo dânCông giáo La Mã,Rhode Island (1636) là một thuộc địa khoan dung với tất cả các tôn giáo,Connecticut (1639) cho tín đồCông Lý hội (Congregational Church). Tỉnh Carolina được thành lập năm 1663. Sau khipháo đài Amsterdam đầu hàng vào năm 1634, người Anh giành quyền kiểm soát thuộc địaTân Hà Lan củaHà Lan và đổi tên thànhNew York. Điều này được chính thức hóa trong cuộc đàm phán sauChiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai, và nó được trao đổi bằngSuriname.[50] Trong năm 1681,William Penn thành lập thuộc địaPennsylvania. Cácthuộc địa Mỹ đạt được ít thành công về mặt tài chính hơn so với các thuộc địa tạiCaribe, nhưng bù lại chúng lại có được nhiều vùng đất màu mỡ cho nông nghiệp và điều này giúp thu hút một số lượng lớn các di dân người Anh vốn ưa thích khí hậu ôn đới tại đó.[51]
Năm 1670, Quốc vươngCharles II cấp đặc quyền để hợp thành tổ chứcCông ty Vịnh Hudson (HBC), được độc quyền về mậu dịch da lông thú tại một khu vực được gọi làvùng lãnh thổ của Rupert, và phần lớnQuốc gia tự trị Canada được hình thành nên từ vùng lãnh thổ này. Người Pháp thường xuyên tấn công các pháo đài và trạm mậu dịch do Công ty HBC thành lập, người Pháp cũng thiết lập thuộc địa mậu dịch da lông thú của mình tại vùng đấtTân Pháp liền kề.[52]
Sơ đồ Mậu dịch tam giác
Hai năm sau,Công ty Hoàng gia châu Phi được thành lập, nó được Quốc vương Charles ban cho độc quyền giao dịch để cung cấp nô lệ cho các thuộc địa của Anh tại Caribe. Ngay từ đầu, chế độnô lệ là cơ sở của Đế quốc Anh tại Tây Ấn. Cho đến khi bãi bỏ việc buôn bán nô lệ vào năm 1807, nước Anh chịu trách nhiệm cho việc vận chuyển 3,5 triệu nô lệngười châu Phi đến châu Mỹ, chiếm 1/3 toàn bộ nô lệvận chuyển qua Đại Tây Dương.[53] Để tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch này, nhiều pháo đài đã được thiết lập trên bờ biển Tây Phi, chẳng hạn nhưđảo James,Accra vàđảo Bunce. TạiCaribe thuộc Anh, tỷ lệ của dân số gốc Phi tăng từ 25% năm 1650 lên khoảng 80% vào năm 1780 và tại 13 thuộc địa là từ 10% đến 40% trong cùng kỳ (phần lớn tại các thuộc địa miền Nam).[54] Đối với các thương nhân nô lệ, giao dịch này cực kỳ sinh lợi và trở thành một trụ cột kinh tế chính cho các thành phố phía tây Anh nhưBristol vàLiverpool, hình thành góc thứ ba của cái gọi làmậu dịch tam giác với châu Phi và châu Mỹ. Các điều kiện khắc nghiệt và mất vệ sinh trên tàu chở nô lệ và chế độ ăn uống nghèo nàn dẫn đếntỷ lệ tử vong trong vận chuyển Phi-Mỹ trung bình là một phần bảy.[55]
Trong năm 1695,Quốc hội Scotland cấp một đặc quyền choCông ty Scotland, công ty này đã thiết lập một khu định cư tạieo đất Panama vào năm 1698. Bị những người thực dân Tây Ban Nha tạiTân Grenada lân cận bao vây và bị ảnh hưởng từ bệnh sốt rét, thuộc địa trên đã bị từ bỏ hai năm sau đó.Kế hoạch Darien là một thảm họa tài chính đối với Scotland – 1/4 ngân sách củaScotland[56] đã bị mất trong thương vụ này- kết thúc hy vọng của Scotland về việc thành lập đế quốc hải ngoại riêng. Điều này cũng tạo ra một hệ quả chính trị to lớn, nó đã khiến cho chính phủ của cả Anh và Scotland tin vào giá trị của một liên minh các quốc gia, thay vì chỉ có một vị vua chung.[57] Điều này được thực hiện vào năm 1707 bằngHiệp định Liên minh, thành lập nênVương quốc Anh.
Vào giai đoạn cuối của thế kỷ XVI, Anh và Hà Lan bắt đầu thách thức sự độc quyền mậu dịch củaBồ Đào Nha với châu Á, hình thành cáccông ty cổ phần tư nhân để tài trợ cho các chuyến hành trình:Công ty Đông Ấn Anh vàCông ty Đông Ấn Hà Lan, chúng được ban đặc quyền lần lượt vào năm 1600 và 1602. Mục đích chủ yếu của những công ty này là khai thácmậu dịch gia vị sinh lợi,[58] một nỗ lực tập trung chủ yếu vào hai khu vực:quần đảo Đông Ấn và một đầu mối quan trọng trong mạng lưới mậu dịch là Ấn Độ. Tại đây, họ đã cạnh tranh bá quyền mậu dịch với Bồ Đào Nha và cả với nhau.[59] Mặc dù sau này nước Anh sẽ tỏ ra vượt trội hoàn toàn so với Hà Lan về phương diện là một đế quốc thực dân, nhưng trong một giai đoạn ngắn, nhờ vào sự tiến bộ hơn trong hệ thống tài chính[60] cùng với ba cuộcchiến tranh với Anh trong thế kỷ XVII đã giúp Hà Lan có một vị thế mạnh hơn tại châu Á. Sự thù địch chỉ kết thúc sau cuộcCách mạng Vinh quang vào năm 1688 khi một người Hà Lan làWilliam xứ Orange trở thành Danh sách quân chủ Anh, điều này giúp mang lại hòa bình giữa Anh và Hà Lan. Hai quốc gia đã đạt được một thỏa thuận trong đó việc buôn bán gia vị của quần đảo Đông Ấn rơi vào tay của người Hà Lan và ngành công nghiệp dệt của Ấn Độ rơi vào tay của người Anh, nhưng lợi nhuận của ngành dệt may sớm vượt qua mặt hàng gia vị và đến năm 1720, doanh số bán hàng của công ty Anh vượt qua công ty của Hà Lan.[60]
Hòa bình giữa Anh và Hà Lan năm 1688 tạo điều kiện để hai quốc gia bước vàochiến tranh Chín năm với tư cách là đồng minh. Tuy nhiên, xung đột tại châu Âu và hải ngoại giữa liên minh Pháp, Tây Ban Nha và liên minh Anh-Hà Lan dẫn đến kết quả là Anh trở thành một thế lực thực dân mạnh hơn Hà Lan, nguyên nhân là do Hà Lan buộc phải dành một phần lớnngân sách quân sự của họ cho cuộc chiến tranh trên bộ vốn tốn kém tại châu Âu.[61] Thế kỷ XVIII chứng kiến Anh (sau 1707 là Anh Liên hiệp) nổi lên trở thành cường quốc thực dân chi phối toàn thế giới và nước Pháp trở thành đối thủ chính trên vũ đài đế quốc.[62]
Sau khiHiệp ước Utrecht được thông qua, Felipe đã từ bỏ quyền thừa kế của bản thân và hậu duệ của ông ta đối với ngai vàng của nước Pháp và Tây Ban Nha mất đi đế quốc của nó tại châu Âu.[63] Đế quốc Anh đã sáp nhập được nhiều lãnh thổ như: Anh chiếm đượcNewfoundland vàAcadia từ tay người Pháp; Gibraltar vàMinorca từ Tây Ban Nha. Gibraltar đã trở thành một căn cứ hải quân trọng yếu và cho phép Anh kiểm soát điểm ra vàoĐịa Trung Hải. Minorca được trả lại cho Tây Ban Nha sauHiệp ước Amiens năm 1802 được ký kết. Tây Ban Nha cũng nhượng quyềnasiento (cho phép bán nô lệ tại cácthuộc địa Tây Ban Nha tại châu Mỹ) sinh lợi cho Anh.[64]
Trong các thập niên giữa của thế kỷ XVIII, có vài lần phát sinh xung đột quân sự trêntiểu lục địa Ấn Độ, gọi là các cuộcChiến tranh Carnatic, khi Công ty Đông Ấn Anh vàCông ty Đông Ấn Pháp đứng về phe các lãnh chúa địa phương để lấp đầy khoảng trống quyền lực để lại sau khiĐế quốc Mogul suy tàn.Trận Plassey diễn ra vào năm 1757, trong đó quân Anh dưới quyềnRobert Clive đánh bạiNawab của Bengal và đồng minh Pháp của ông ta, dẫn đến việcCông ty Đông Ấn Anh kiểm soátBengal và là thế lực quân sự và chính trị lớn tại Ấn Độ.[65] Pháp chỉ còn giữ lại được quyền kiểm soát cáclãnh thổ tách rời của họ, cùng với đó là bị hạn chế về quân sự và phải có nghĩa vụ hỗ trợ cho các quốc gia quốc gia chư hầu của Anh, kết thúc hy vọng của Pháp nhằm kiểm soát Ấn Độ.[66] Trong các thập niên sau, Công ty Đông Ấn Anh từng bước tiến hành mở rộng các vùng lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của họ, tiến hành cai trị trực tiếp hoặc thông qua các lãnh chúa địa phương dưới sự răn đe vũ lực từQuân đội Ấn Độ thuộc Anh – đại đa số trong đó là các línhsepoy người Ấn.[67]
Cuộc chiến tranh giữa Anh và Pháp tại Ấn Độ chỉ là một mặt trận trong cuộcChiến tranh Bảy năm (1756 – 1763) có quy mô toàn cầu, liên quan đến Pháp, Anh và các cường quốc châu Âu khác. Sự kiện ký kếtHiệp định Paris (1763) đã đem lại những hệ quả quan trọng cho tương lai của Đế quốc Anh. Tại Bắc Mỹ, tương lai cường quốc thực dân của Pháp tại đây kết thúc hữu hiệu bằng việc công nhận yêu sách của Anh đối vớiVùng đất Rupert,[52] và nhượng lạiTân Pháp cho Anh (để lại mộtcộng đồng Pháp ngữ đáng kể dưới quyền kiểm soát của Anh) và nhượng lại vùng đấtLouisiana cho Tây Ban Nha. Tây Ban Nha nhượng lại vùng đấtFlorida cho Anh. Cùng với chiến thắng trước người Pháp tại Ấn Độ, cuộc Chiến tranh Bảy năm đã giúp nước Anh trở thành cường quốc hàng hải hùng mạnh nhất thế giới.[68]
Trong các thập niên 1760 và 1770, các quan hệ giữaMười ba thuộc địa và Anh trở nên căng thẳng hơn, chủ yếu do của sự phẫn uất trước các nỗ lực của Quốc hội Anh nhằm quản lý và đánh thuế những người thực dân Mỹ mà không có sự đồng ý của họ.[69] Tình trạng này đương thời được tóm tắt thông qua khẩu hiệu "Không đại biểu, không nộp thuế".Cách mạng Mỹ bắt đầu bằng việc bác bỏ uy quyền của Quốc hội và tiến tới tự quản. Nhằm đối phó, Anh phái binh sĩ đi tái lập quyền cai trị trực tiếp, dẫn đến bùng nổchiến tranh vào năm 1775. Sang năm 1776,Hợp chúng quốc tuyên bố độc lập. Với việc ngườiPháp tham gia vào cuộc chiến tranh này trong năm 1778 làm cho cán cân quân sự nghiêng theo chiều hướng có lợi cho người Mỹ và sau một thất bại quyết định tạiYorktown vào năm 1781, Anh bắt đầu thương lượng các điều khoản hòa bình. Nền độc lập của Hoa Kỳ được công nhận trongHòa ước Paris vào năm 1783.[70]
Đương thời,Mười ba thuộc địa châu Mỹ là vùng lãnh thổ hải ngoại đông dân nhất của Anh, sự mất mát này được một số sử gia nhìn nhận là sự chuyển tiếp giữa đế quốc "thứ nhất" và "thứ nhì",[71] với việc nước Anh chuyển sự chú ý của mình từ châu Mỹ sang châu Á, Thái Bình Dương và sau đó làchâu Phi. Trong tác phẩmSự giàu có của các quốc gia được xuất bản năm 1776,Adam Smith lập luận rằng các thuộc địa là dư thừa và quá trình tự do thương mại sẽ thay thế các chính sáchtrọng thương cũ vốn biểu thị đặc điểm cho giai đoạn đầu của quá trình bành trướng thuộc địa, bắt nguồn từchủ nghĩa bảo hộ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.[68][72] Tăng trưởng mậu dịch giữa Hoa Kỳ và Anh sau năm 1783 dường như xác nhận quan điểm của Smith rằng sự kiểm soát về mặt chính trị không phải là điều tất yếu đối với sự thành công về kinh tế.[73][74]
Các sự kiện tại Hoa Kỳ tác động đến chính sách của Anh tại Canada, tại đây có 40.000 đến 100.000[75]người Trung thành chiến bại di cư từ Hoa Kỳ sau khi độc lập.[76] 14.000 người Trung thành đến các thung lũngsông Saint John vàsông Saint Croix, lúc này đang là một phần củaNova Scotia, họ cảm thấy quá xa tỉnh lị tạiHalifax, do đó Luân Đôn đã táchNew Brunswick thành một thuộc địa riêng biệt vào năm 1784.[77]Đạo luật Hiến pháp 1791 đã lập ra các tỉnhThượng Canada (chủ yếu nói tiếng Anh) vàHạ Canada (chủ yếu nói tiếngPháp) để nhằm xoa dịu căng thẳng giữa các cộng đồng người Pháp và người Anh và thi hành các hệ thống chinh phủ tương tự như tại Anh, với mục đích khẳng định quyền lực đế quốc và không cho phép kiểu kiểm soát nhân dân đối với chính phủ vốn được cho là dẫn đến Cách mạng Mỹ.[78]
Căng thẳng giữa Anh và Hoa Kỳ lại leo thang thành chiến tranh trongCác cuộc chiến tranh của Napoléon, do nước Anh nỗ lực cắt đứt mậu dịch của Hoa Kỳ với Pháp và nhảy lên các tàu của Hoa Kỳ để bắt những người sinh tại Anh nhập ngũ Hải quân Hoàng gia. Hoa Kỳ đã tuyên chiến, dẫn đếnChiến tranh năm 1812 và xâm chiếm lãnh thổ Canada, song biên giới tiền chiến được tái xác nhận quaHiệp định Ghent 1814, đảm bảo tương lai của Canada sẽ tách biệt với Hoa Kỳ.[79][80]
Kể từ năm 1718, việcđày ải đến các thuộc địa ở châu Mỹ là một hình phạt cho nhiều tội phạm hình sự khác nhau tại Anh, với khoảng một nghìn tù nhân được vận chuyển vượt Đại Tây Dương mỗi năm.[81] Sau khi để mất 13 thuộc địa, nước Anh buộc phải tìm một địa điểm khác thay thế và đến năm 1783 thì Chính phủ Anh quay sang các vùng đất mới được phát hiện tại Úc.[82] Bờ biển phía tây của Úc đã được người châu Âu phát hiện trong chuyến hành trình của nhà thám hiểm người Hà LanWillem Jansz vào năm 1606 và sau này đượcCông ty Đông Ấn Hà Lan đặt tên làTân Hà Lan,[83] nhưng không có nỗ lực thuộc địa hóa tại Úc. Năm 1770,James Cook phát hiện bờ biển phía đông của Úc trong mộtchuyến hành trình khoa học đến khu vựcNam Thái Bình Dương và tuyên bố rằng lục địa này thuộc về nước Anh, ông ta đặt tên cho khu vực này làNew South Wales.[84] Năm 1778,nhà thực vật học trong hành trình của Cook làJoseph Banks đệ trình các bằng chứng cho chính phủ về sự thích hợp củavịnh Botany đối với việc thiết lậpkhu định cư hình sự và đến năm 1787 thì chuyến tàu đầu tiên chở tù nhân đã khởi hành, nó đến nơi vào năm 1788.[85] Đế quốc Anh tiếp tục vận chuyển tù nhân đến Úc cho đến năm 1840.[86] Nguồn xuất khẩu đem lại lợi nhuận cho các thuộc địa ởÚc đó là lông cừu và vàng,[87] chủ yếu là do các phong trào tìm vàng tại thuộc địaVictoria, khiến thủ phủMelbourne của thuộc địa này trở thành thành phố giàu nhất thế giới vào thời điểm đó[88] và là thành phố lớn thứ hai, sauLuân Đôn, trong Đế quốc Anh.[89]
Trong chuyến hành trình của mình, James Cook cũng đã đặt chân đếnNew Zealand, vốn được nhà thám hiểm Hà LanAbel Tasman phát hiện ra từ năm 1642.James Cook sau đó tuyên bố rằng chủ quyền của cácđảo Bắc vàNam thuộc vềhoàng gia Anh lần lượt vào năm 1769 và 1770. Ban đầu, mối quan hệ giữa những cư dânMaori bản địa và người châu Âu chỉ giới hạn trong việc giao dịch hàng hoá. Người châu Âu tăng cường định cư trong suốt những thập niên đầu của thế kỷ XIX, với nhiều trạm mậu dịch được thành lập, đặc biệt là tại đảo Bắc. Năm 1839,Công ty New Zealand đã công bố kế hoạch mua những vùng đất rộng lớn và thiết lập các thuộc địa tại New Zealand. Ngày 6 Tháng 2 năm 1840, Thuyền trưởngWilliam Hobson và khoảng 40 tù trưởngMaori kýHiệp ước Waitangi.[90] Hiệp ước này được nhiều người cho là văn kiện sáng lập nên New Zealand,[91] nhưng lại có sự diễn giải khác nhau giữa các phiên bản tiếng Maori và tiếng Anh của văn kiện này[92] có nghĩa rằng nó tiếp tục là một văn kiện gây tranh cãi.[93]
Anh lại gặp thách thức trước nước Pháp củaNapoléon Bonaparte, cuộc chiến này không giống như các cuộc chiến tranh khác từng xảy ra trước đó khi nó đại diện cho một tranh đua ý thức hệ giữa hai quốc gia.[94] Không chỉ có vị thế của Anh trên thế giới bị đe dọa: Napoléon từng đe dọa xâm chiến bản thân Anh, cũng giống như quân đội của ông từng thực hiện với nhiều quốc gia trênlục địa châu Âu.
Các cuộc chiến tranh Napoléon khiến người Anh buộc phải đầu tư một lượng lớn vốn và tài nguyên để giành chiến thắng.Hải quân Hoàng gia Anh phong tỏa các cảng của Pháp và giành được một chiến thắng quyết định trước một hạm đội Pháp-Tây Ban Nha tạiTrafalgar vào năm 1805. Các thuộc địa hải ngoại cũng bị tấn công và chiếm đóng, bao gồm cả của Hà Lan do quốc gia này bị Napoléon sáp nhập vào năm 1810. Cuối cùng Pháp bị một liên minh các quân đội châu Âu đánh bại vào năm 1815.[95] Anh một lần nữa lại là bên hưởng lợi từ các hòa ước: Pháp nhượngquần đảo Ionia,Malta (mà họ lần lượt chiếm đóng năm 1797, 1798),Mauritius,Saint Lucia vàTobago; Tây Ban Nha nhượngTrinidad; Hà Lan nhượng Guyana và Thuộc địa Cape. Anh trảGuadeloupe,Martinique,Guiana thuộc Pháp vàRéunion cho Pháp;Java vàSuriname cho Hà Lan, trong khi nắm quyền kiểm soát đối vớiTích Lan (1795 – 1815).[96]
Sự xuất hiện của cuộc cách mạng công nghiệp khiến hàng hoá được nô lệ sản xuất trở nên ít quan trọng đối với nền kinh tế Anh.[97] Với sự ủng hộ từphong trào bãi nô Anh,Quốc hội Anh ban hànhĐạo luật buôn bán nô lệ vào năm 1807, theo đó bãi bỏ việc buôn bán nô lệ trong đế quốc. Năm 1808,Sierra Leone được chỉ định là một thuộc địa chính thức của Anh cho các nô lệ được giải phóng.[98] Đạo luật Bãi nô được thông qua vào năm 1833,bãi bỏ chế độ nô lệ tại Đế quốc Anh vào ngày 1 tháng 8 năm 1834 (ngoại trừSt. Helena,Tích Lan và các lãnh thổ doCông ty Đông Ấn Anh quản lý, song những ngoại lệ bị bãi bỏ sau đó). Theo Đạo luật này, nô lệ đượcgiải phóng hoàn toàn sau một khoảng thời gian từ 4 đến 6 năm "học nghề".[99] Và đồng thời chủ sở hữu nô lệ sẽ được chính phủ Anh bồi thường.
Bản đồ chi tiết Đế quốc Anh năm 1886, những lãnh thổ do Đế quốc Anh cai trị được tô màu trên bản đồ.
Từ năm 1815 đến 1914 là khoảng thời gian mà các sử gia cho là "thế kỷ đế quốc" của Anh,[100][101] họ mở rộng lãnh thổ của mình thêm 10.000.000 dặm vuông Anh (26.000.000 km2) cùng với khoảng 400 triệu người.[102] Chiến thắng trước Napoléon giúp Anh không còn bất kỳ đối thủ quốc tế đáng gờm nào, ngoại trừ vớiNga tại Trung Á.[103] Không gặp thách thức trên biển, Anh tiếp nhận vai trò là cảnh sát toàn cầu, về sau còn được gọi làPax Britannica ("Thái bình Anh quốc"),[104] và chính sách đối ngoại "cô lập quang vinh". Cùng với việc áp đặt kiểm soát chính thức lên các thuộc địa của mình, vị thế chi phối của Anh trong mậu dịch thế giới có nghĩa rằng họ kiểm soát hữu hiệu nền kinh tế của nhiều quốc gia, nhưArgentina vàXiêm La, là điều được một vài nhà sử học gọi là "đế quốc phi chính thức".[105][106]
Sức mạnh đế quốc của Anh được củng cố bằngtàu hơi nước vàđiện báo, các công nghệ mới được phát minh trong nửa cuối của thế kỷ XIX, cho phép họ kiểm soát và phòng thủ đế quốc. Đến năm 1902, Đế quốc Anh được liên kết với nhau bởi một mạng lưới cáp điện báo, được gọi làToàn Hồng Tuyến.[107]
Một biếm họa chính trị củaBenjamin Disraeli (1804–1881). Câu ghi chú là "New crowns for old ones!" (Tạm dịch: Vương miện mới cho những người cũ)
Công ty Đông Ấn Anh tiến hành mở rộng lãnh thổ của Đế quốc Anh tạichâu Á. Quân đội của Công ty ban đầu gia nhập lực lượng với Hải quân Hoàng gia trongChiến tranh Bảy năm và hai bên tiếp tục hợp tác trên các chiến trường nằm ngoàiẤn Độ: trục xuất quân Napoléon khỏiAi Cập (1799),[108] chiếmJava từ Hà Lan (1811), thu nhậnSingapore (1819) vàMalacca (1824) và đánh chiếmMiến Điện (1826).[103]
Từ căn cứ tại Ấn Độ, Công ty tiến hành mậu dịch xuất khẩuthuốc phiện ngày càng sinh lợi sangTrung Quốc kể từ thập niên 1730. Hoạt động mậu dịch này trở thành bất hợp pháp kể từ khi nó bịnhà Thanh cấm vào năm 1729, song buôn thuốc phiện giúp đảo nghịch sự mất cân bằng thương mại do Anh nhập khẩu trà vốn khiến một lượng lớn bạc đổ từ Anh sang Trung Quốc.[109] Năm 1839, chính quyền Trung Quốc tạiQuảng Châu cho tịch thu hơn 2 vạn hòm thuốc phiện, dẫn đến việc Anh tấn công Trung Quốc trong cuộcchiến tranh Nha phiến lần thứ nhất và đem đến kết quả là người Anh chiếmđảo Hồng Kông - đương thời là một khu dân cư nhỏ.[110]
Vào cuốithế kỷ XVIII và đầuthế kỷ XIX, Chế độ quân chủ của nước Anh bắt đầu đảm nhiệm một vai trò lớn ngày càng tăng trong các sự vụ của Công ty. Một loạt đạo luật của Quốc hội được thông qua, gồm cóĐạo luật Điều tiết 1773,Đạo luật Ấn Độ Pitt 1784 vàĐạo luật Đặc quyền 1813 mà theo đó quy định các công việc của Công ty và thiết lập chủ quyền của chế độ Quân chủ đối với các lãnh thổ mà Công ty giành được.[111]Cuộc khởi nghĩa của người Ấn Độ vào năm 1857 đã khiến cho sự tồn tại của Công ty đi đến hồi kết, cuộc chiến này bắt đầu bằng một cuộc binh biến của cácsepoy.[112] Cuộc khởi nghĩa này kéo dài trong sáu tháng thì kết thúc, với thiệt hại nặng về nhân mạng cho cả hai bên. Năm sau đó, Chính phủ Anh giải thể Công ty và nắm quyền kiểm soát trực tiếp đối với Ấn Độ thông qua Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1858, thiết lậpẤn Độ thuộc Anh, một toàn quyền được bổ nhiệm để quản lý Ấn Độ vàVictoria của Anh được tôn làm Nữ hoàng Ấn Độ.[113] Ấn Độ trở thành tài sản có giá trị lớn nhất của Đế quốc, "Minh châu của Quân chủ" và là nguồn lực quan trọng nhất đối với sức mạnh của nước Anh.[114]
Một loạt những vụ mất mùa nghiêm trọng xảy ra vào cuối thế kỷ XIX đã khiến chonạn đói lan rộng tại tiểu lục địa Ấn Độ, trong đó ước tính có trên 15 triệu người chết. Công ty Đông Ấn Anh không tiến hành bất kỳ chính sách phối hợp nào để đối phó với nạn đói trong thời kỳ họ cai trị. Sau đó, khi nước Anh cai trị trực tiếp Ấn Độ, các ủy ban được thiết lập sau mỗi nạn đói để điều tra nguyên nhân và thi hành các chính sách mới, điều này diễn ra cho đến đầu thập niên 1900.[115]
Kỵ binh Anh chống quân Nga tạiBalaclava vào năm 1854
Trong thế kỷ XIX, Đế quốc Anh vàĐế quốc Nga, vốn đang cố gắng mở rộng quyền lực đến khu vực Trung Á, ganh đua với nhau để lấp đầy các khoảng trống quyền lực bắt đầu từ việcĐế quốc Ottoman,vương triều Qajar vàĐại Thanh suy sụp. Tình trạng kình địch tại Âu-Á này được gọi là "Ván cờ Lớn" (Great Game).[116] Như Anh lo ngại, các chiến thắng của Nga trướcBa Tư vàOttoman biểu thị tham vọng đế quốc và khả năng của họ, làm dấy lên lo ngại tại Anh về một cuộc xâm chiếm bằng đường bộ vào Ấn Độ.[117] Năm 1839, để nhằm giành thế chủ động trước nguy cơ này nước Anh đã xâm chiếmAfghanistan, tuy nhiên cuộcChiến tranh Afghanistan-Anh thứ nhất lại là một thảm họa đối với nước Anh.[96] Đây là một trong những thất bại thảm hại nhất trong thời đại Victoria, khi mà quân Anh bị bộ tộc Pashtun, vốn được trang bị bằng vũ khí do Nga cung cấp, tiêu diệt gần như toàn bộ trên đường rút khỏi Kabul.[118]Chiến tranh Afghanistan-Anh thứ hai vào năm 1880 dẫn đến thất bại thảm hại của người Anh tạiMaiwand, cũng như thành Kabul bị người Afghan bao vây và người Anh bị buộc phải rút về Ấn Độ. Thất bại trongChiến tranh Afghanistan-Anh thứ ba vào năm 1919 buộc người Anh phải rời bỏ Afghanistan vĩnh viễn.
Sau khi người Nga xâm chiếm khu vựcBalkan của đế chế Ottoman vào năm 1853, lo ngại về ưu thế của Nga tạiĐịa Trung Hải vàTrung Đông đã khiến Anh và Pháp xâm chiếmbán đảo Krym để tiêu diệt năng lực hải quân của Nga.[96] CuộcChiến tranh Krym (1854–56) diễn ra sau đó đã áp dụng các kỹ thuật mới của chiến tranh hiện đại,[119] và cũng là cuộcchiến tranh toàn cầu duy nhất giữa Anh và thế lực đế quốc khác trong thời kỳPax Britannica, kết quả của cuộc chiến này là một thất bại nặng nề đối với Nga.[96] Tình hình tại Trung Á vẫn chưa thể được giải quyết một cách ổn thỏa trong hai thập niên tiếp theo, sau khi Anh sáp nhậpBaluchistan vào năm 1876 và Nga sáp nhậpKirghizia,Kazakhstan vàTurkmenistan.
Vào năm 1878, Đế quốc Ottoman đã chuyên giao đảoSíp cho Anh và đổi lại họ sẽ nhận được viện trợ nếu bị người Nga tấn công. Trong cùng năm, Nga và Anh đạt được một hiệp định về phạm vi ảnh hưởng của họ trong khu vực và trên toàn bộ các vấn đề còn tồn tại vào năm 1907 khi ký kếtHiệp ước thân thiện Nga-Anh.[120] Cố gằng cuối cùng để mở rộng ảnh hưởng của mình ở Trung Á đã được người Anh thực hiện trong cuộcViễn chinh Tây Tạng bất thành năm 1903-04. Sự kiệnHải quân Nga bị người Nhật hủy diệt trongHải chiến cảng Lữ Thuận trong khuôn khổChiến tranh Nga-Nhật 1904–05 cũng hạn chế mối đe dọa của Nga đối với Anh.[121] Cape đến Cairo
The Rhodes Colossus—Cecil Rhodes giang từ "Cape đến Cairo"
Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lậpThuộc địa Cape tại mũi phía nam của châu Phi vào năm 1652 để làm một trạm cho các tàu của họ đi và rời các thuộc địa tạiĐông Ấn. Nước Anh chính thức sở hữu khu thuộc địa và những cư dânAfrikaner (hayBoer) chiếm đa số ở thuộc địa này vào năm 1806, từ trước đó nước Anh đã chiếm đóng nơi này vào năm 1795 để ngăn chặn nó rơi vào tay người Pháp sau khi Pháp xâm chiếm Hà Lan.[122] Những di dân từ nước Anh bắt đầu tăng lên từ sau năm 1820, họ đã đẩy hàng nghìn người Boer vốn phẫn uất trước sự cai trị của Anh về phía bắc, người Boer sau đó thành lập các nước cộng hòa độc lập của họ song hầu hết đều đoản mệnh, tình trạng này được gọi là Đại Di cư (Great Trek) và diễn ra vào cuối thập niên 1830 và đầu thập niên 1840.[123] Trong quá trình di dân, những người Boer đã đụng độ nhiều lần với người Anh, người Anh thì có chương trình riêng của mình nhằm khuếch trương thuộc địa tại Nam Phi và với vài chính thể châu Phi, bao gồm của ngườiSotho vàZulu. Cuối cùng thì người Boer cũng đã thành lập hai nước cộng hòa tồn tại lâu dài là:Cộng hòa Nam Phi hayCộng hòa Transvaal (1852 – 1877; 1881 – 1902) vàQuốc gia Tự do Oranje (1854 – 1902).[124] Năm 1902, đế quốc Anh đã chiếm đóng hai nước cộng hòa này và ký kết một hiệp định với hai nước cộng hòa Boer sauChiến tranh Boer thứ hai (1899 – 1902).[125]
Năm 1869,kênh đào Suez được khánh thành dưới quyềnNapoléon III, liên kết Địa Trung Hải với Ấn Độ Dương. Ban đầu, Anh phản đối Kênh đào;[126] song khi nó được khánh thành, giá trị chiến lược của nó nhanh chóng được công nhận và trở thành "tĩnh mạch cổ của Đế quốc".[127] Năm 1875, chính phủBảo thủ củaBenjamin Disraeli mua từ quân chủ Ai Cập đang mắc nợ làIsma'il Pasha 44% cổ phần của Kênh đào Suez với giá £4 triệu. Mặc dù điều này không trao cho Anh quyền kiểm soát lập tức thủy đạo chiến lược, song tạo cho Anh đòn bẩy. Kiểm soát tài chính chung Anh-Pháp đối với Ai Cập kết thúc khi Anh chiếm đóng hoàn toàn Ai Cập vào năm 1882.[128] Pháp vẫn là đại cổ đông và nỗ lực làm suy yếu vị thế của Anh,[129] song nhờ có một thỏa hiệp đạt được theoHiệp định Constantinopolis 1888, mà vì thế Kênh đào đã trở thành một lãnh thổ trung lập chính thức.[130]
Với sự cạnh tranh của Pháp,Bỉ vàBồ Đào Nha ở hạ lưu khu vực sông Congo đã phá hoại sự thuộc địa hóa một cách có trật tự ở vùng châu Phi nhiệt đới,Hội nghị Berlin 1884–85 đã được tổ chức nhằm điều chỉnh sự cạnh tranh giữa các thế lực châu Âu trong cái được gọi là "Tranh giành châu Phi" theo định nghĩa "chiếm đóng hữu hiệu" với tư cách là tiêu chuẩn về công nhận quốc tế cho các yêu sách lãnh thổ.[131] Sự tranh giành này tiếp tục trong thập niên 1890 và khiến cho Anh tái cân nhắc lại quyết định triệt thoái khỏiSudan vào năm 1885. Một lực lượng liên quân gồm quân Anh và Ai Cập đã đánh bạiquân Mahdi vào năm 1896 và đẩy lui một cuộc xâm chiếm của Pháp tạiFashoda vào năm 1898. Sudan trên danh nghĩa nằm dưới chế độ đồng trị Anh-Ai Cập, song trên thực tế nó là một thuộc địa của Anh.[132]
Những thâu tóm của Anh tại miền nam và miền đông châu Phi đã thúc đẩyCecil Rhodes, nhà tiên phong của quá trình bành trướng của Anh tại châu Phi, đề xuất xây dựng một tuyến đường sắt từ "Cape đến Cairo" liên kết Kênh đào Suez có tầm quan trọng về mặt chiến lược với miền Nam giàu khoáng sản.[133] Trong thập niên 1880 và 1890, Rhodes cùng vớiCông ty Nam Phi thuộc Anh do ông sở hữuchiếm đóng và sáp nhập các lãnh thổ mà sau đó được đặt làRhodesia theo họ của ông.[134]
Những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX chứng kiến cácchiến dịch chính trị mang tính phối hợp đòiquyền tự quản cho Ireland. Ireland đã được hợp nhất với nước Anh theoĐạo luật Liên minh năm 1800 sau cuộckhởi nghĩa Ireland năm 1798 và nó đã phải trải qua mộtnạn đói khắc nghiệt từ năm 1845 đến năm 1852. Quyền tự trị dành cho Ireland đã được Thủ tướng AnhWilliam Gladstone ủng hộ, ông ta hy vọng rằng Ireland có thể tiếp bước Canada để trở thành một quốc gia tự trị trong đế quốc, songDự luật Tự trị năm 1886 của ông ta đã gặp phải thất bại tại Quốc hội. Mặc dù nếu dự luật này được thông qua Ireland chỉ nhận được mức độ tự trị thấp hơn nhiều so với các tỉnh của Canada trong liên bang của họ,[139] song nhiều nghị viên lo ngại rằng một khi đất nước Ireland có được một sự độc lập tương đối, điều này sẽ tạo ra một mối đe dọa về mặt an ninh cho nước Anh hoặc đánh dấu bước khởi đầu cho sự tan rã của Đế quốc.[140] Mộtdự luật tự trị thứ nhì cũng thất bại vì các nguyên nhân tương tự.[140] Mộtdự luật thứ ba được Quốc hội thông qua vào năm 1914, song không được thi hành doChiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát, dẫn đến cuộckhởi nghĩa Phục Sinh vào năm 1916.[141]
Bước sang thế kỷ XX, lo ngại bắt đầu tăng lên tại Anh rằng họ sẽ không còn có thể phòng thủmẫu quốc và sự toàn vẹn của Đế quốc trong khi đương thời duy trì chính sách "cô lập vinh quang".[142] Đức nhanh chóng phát triển thành một cường quốc quân sự và công nghiệp và lúc này được nhận định là đối thủ khả dĩ nhất trong bất kỳ cuộc chiến tranh tương lai nào. Nhận thấy rằng bản thân mình đang phải phân tán lực lượng trên khắp toàn bộ khu vực Thái Bình Dương[143] và bị đe dọa tại mẫu quốc trướcHải quân Đế quốc Đức, nước Anh đã thiết lập mộtliên minh với Nhật Bản vào năm 1902 và với các cựu địch thủ làPháp vàNga lần lượt vào năm 1904 và 1907.[144]
Các binh sĩ của Sư đoàn số 5 Úc chờ tấn công trongtrận Fromelles, 19 tháng 7 năm 1916
Nỗi lo sợ của người Anh về một cuộc chiến tranh với Đức đã trở thành hiện thực vào năm 1914 khiChiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Nước Anh nhanh chóng xâm chiếm và chiếm đóng hầu hết thuộc địa hải ngoại của Đức tại châu Phi. Tại Thái Bình Dương, Úc và New Zealand cũng đã lần lượt chiếm đóngTân Guinea thuộc Đức vàSamoa. Các kế hoạch phân chia sau hậu chiến đối vớiĐế quốc Ottoman cùng phe với Đức đã được Anh và Pháp bí mật soạn thảo theoHiệp định Sykes–Picot vào năm 1916. Hiệp định này không được tiết lộ choSharif của Mecca, là người được Anh khuyến khích tiến hành một cuộc khởi nghĩa Ả Rập chống lại đế quốc Ottoman, để nhằm tạo ấn tượng rằng nước Anh ủng hộ thiết lập một quốc gia Ả Rập độc lập.[145]
Một áp phích kêu gọi nam nhi từ mọi khu vực thuộc Đế quốc Anh để gia nhập quân đội Anh.
Anh tuyên chiến với Đức và các đồng minh của họ, điều này cũng liên lụy đến các thuộc địa và quốc gia tự trị của Anh vốn là những nguồn cung cấp quân sự, tài chính và tài nguyên vô giá. Trên 2,5 triệu binh sĩ phục vụ trong các quân đội của các quốc gia tự trị, cũng như có hành nghìn quân tình nguyện từ cácthuộc địa hoàng gia.[146] Đóng góp của các binh sĩ Úc và New Zealand trongChiến dịch Gallipoli chống lại Đế quốc Ottoman vào năm 1915 đã tạo nên một tác động rất lớn đến hệ ý thức quốc gia tại quê hương của họ và đánh dấu một bước ngoặt trong quá trình chuyển biến Úc và New Zealand từ các thuộc địa thành các quốc gia độc lập. Người Canada cũng nhìn nhậntrận Vimy Ridge với một quan niệm tương tự.[147] Đóng góp quan trọng của các quốc gia tự trị vào nỗ lực chiến tranh được Thủ tướng AnhDavid Lloyd George công nhận vào năm 1917 khi ông mời thủ tướng của các quốc gia tự trị tham gia mộtNội các Chiến tranh Đế quốc để phối hợp chính sách đế quốc.[148]
Theo các điều khoản củaHòa ước Versailles kết thúc Thế Chiến vào năm 1919, đế quốc Anh đạt đến đỉnh cao của nó khi có thêm 1.800.000 dặm vuông Anh (4.700.000 km2) và 13 triệu thần dân mới.[149] Các thuộc địa của Đức vàOttoman được phân cho các cường quốc Đồng Minh với vị thế doHội Quốc Liên ủy thác. Anh giành được quyền kiểm soátPalestine,Transjordan,Iraq, nhiều vùng đất củaCameroon vàTogo vàTanganyika. Bản thân các quốc gia tự trị cũng giành được các lãnh thổ ủy thác riêng:Liên bang Nam Phi giành đượcTây-Nam Phi (nay làNamibia), Úc giành đượcTân Guinea thuộc Đức và New Zealand giành đượcTây Samoa.Nauru là một lãnh thổ ủy thác chung của Anh và hai quốc gia tự trị Thái Bình Dương.[150]
Trật tự thế giới đang thay đổi vốn bắt nguồn từ đại chiến, đặc biệt là sự lớn mạnh của Hoa Kỳ và Nhật Bản trở thành các cường quốc hải quân và trỗi dậy của các phong trào độc lập tại Ấn Độ và Ireland, dẫn đến một sự tái xem xét quan trọng liên quan đến chính sách đế quốc của Anh.[151] Buộc phải lựa chọn giữa liên kết với Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản, Anh quyết định không gia hạn liên minh với Nhật mà thay vào đó ký kếtHiệp định Hải quân Washington vào năm 1922, theo đó Anh chấp thuận sự đồng đẳng về hải quân với Hoa Kỳ.[152] Quyết định này là nguồn gốc của nhiều tranh luận tại Anh trong thập niên 1930[153] khi các chính phủ quân phiệt nắm được quyền lực tại Nhật Bản và Đức một phần nhờ vàoĐại khủng hoảng, do họ lo ngại rằng Đế quốc không thể tồn tại qua một cuộc tấn công đồng thời từ hai quốc gia.[154] Vấn đề an ninh của đế quốc là một mối quan tâm nghiêm trọng tại Anh, bởi vì nó là vấn đề mang tính sống còn với nền kinh tế của nước Anh.[155]
Năm 1919, thất vọng bắt nguồn từ việc trì hoãnquyền tự trị của Ireland khiến các thành viên củaSinn Féin- một đảng ủng hộ độc lập và chiếm đa số ghế của Ireland trong Quốc hội Anh trongtổng tuyển cử năm 1918- thành lập mộtNghị viện Ireland tạiDublin, và tại đây nền độc lập của Ireland đã được tuyên bố.Quân đội Cộng hòa Ireland đồng thời bắt đầu một chiến tranh du kích chống chính quyền Anh.[156]Chiến tranh Anh-Ireland kết thúc vào năm 1921 trong bế tắc và hai bên ký kếtHiệp định Anh-Ireland thiết lậpQuốc gia Tự do Ireland, một quốc gia tự trị nằm trong Đế quốc Anh, với nền độc lập tự chủ thật sự song vẫn có liên kết về hiến pháp với Quân chủ Anh.[157]Bắc Ireland, gồm 6/32 quận của Ireland lập tức thi hành quyền lựa chọn theo hiệp định là duy trì tình trạng hiện hành trong Vương quốc Liên hiệp.[158]
George V cùng thủ tướng của Anh và các quốc gia tự trị trong Hội nghị Đế quốc năm 1926
Một cuộc đấu tranh tương tự đã bắt đầu tại Ấn Độ sau khiĐạo luật Chính phủ Ấn Độ năm 1919 thất bại trong việc xoa dịu phong trào đòi độc lập.[159] Lo ngại về các âm mưu cộng sản và ngoại quốc sẽ sảy ra sauÂm mưu Ghadar đã khiến cho thiết quân luật được khôi phục theo cácĐạo luật Rowlatt. Điều này dẫn đến căng thẳng,[160] đặc biệt là tại khu vựcPunjab, tại đây các biện pháp đàn áp đã lên đến cực độ trong cuộcThảm sát Amritsar. Dư luận tại Anh bị chia rẽ về tính đạo đức của sự kiện, giữa những người cho rằng nó cứu Ấn Độ khỏi tình trạng hỗn loạn và những người cho rằng nó ghê tởm.[160]Phong trào bất hợp tác tiếp đó được ngưng lại vào tháng 3 năm 1922 sausự kiện Chauri Chaura và bất mãn tiếp tục âm ỉ trong 25 năm tiếp theo.[161]
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát, Ai Cập được tuyên bố là mộtquốc gia bảo hộ của Anh, nhưng đến năm 1922 thì nước này đã đượctrao trả độc lập một cách chính thức, song tiếp tục là một quốc gia chư hầu của Anh cho đến năm 1954. Các binh sĩ Anh duy trì đồn trú tại Ai Cập cho đến khi ký kếtHiệp định Anh – Ai Cập vào năm 1936,[162] theo đó nhất trí rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái song tiếp tục chiếm lĩnh và phòng thủ khu vựcKênh đào Suez. Đổi lại, Ai Cập được giúp đỡ để gia nhậpHội Quốc Liên.[163]Iraq là mộtlãnh thổ ủy trị của Anh từ năm 1920 và cũng giành được tư cách thành viên của Hội Quốc Liên nhân danh bản thân sau khi giành độc lập từ Anh vào năm 1932.[164] TạiPalestine, Anh đề xuất vấn đề hòa giải giữa các cộng đồng Ả Rập và Do Thái.Tuyên ngôn Balfour năm 1917 được hợp nhất vào các điều khoản ủy thác, cho rằng một tổ quốc cho người Do Thái sẽ được thiết lập tại Palestine và những người Do Thái nhập cư được chấp thuận đến một hạn định do thế lực ủy thác quy định.[165] Điều này dẫn đến xung đột ngày càng gia tăng với cư dân Ả Rập, họkhởi nghĩa công khai vào năm 1936. Do mối họa chiến tranh với Đức gia tăng trong thập niên 1930, Anh xét thấy sự ủng hộ của cư dân Ả Rập tại Trung Đông quan trọng hơn thiết lập một quê hương cho người Do Thái và chuyển sang một lập trường thân Ả Rập, hạn chế người Do Thái nhập cư và dẫn đến kích hoạt mộtcuộc nổi loạn của người Do Thái.[145]
Các quốc gia tự trị có quyền được thiết lập chính sách đối ngoại riêng của mình, độc lập với Anh, điều này được công nhận tạihội nghị Đế quốc 1923.[166] Yêu cầu của Anh về trợ giúp quân sự từ các quốc gia tự trị tại thời điểm bùng phát cuộcKhủng hoảng Chanak vào năm trước đó đã bị Canada và Nam Phi bác bỏ và Canada từ chối bị rằng buộc theoHiệp ước Lausanne 1923.[167][168] Sau những áp lực từ Ireland và Nam Phi, Hội nghị Đế quốc năm 1926 đã ban bốTuyên ngôn Balfour, tuyên bố các quốc gia tự trị là "các cộng đồng tự trị trong Đế quốc Anh, bình đẳng về vị thế, không có bên nào phải lệ thuộc vào bên nào" trong một "Thịnh vượng chung của các Quốc gia Anh".[169] Tuyên bố này được công nhận tính pháp lý theoQuy chế Westminster năm 1931.[138] Các quốc hội củaCanada, Úc,New Zealand, Liên bang Nam Phi, Quốc gia Tự do Ireland vàNewfoundland lúc này đã không còn lệ thuộc vào sự kiểm soát về mặt lập pháp của Anh, họ có thể hủy bỏ các điềuluật Anh và Anh không còn có thể thông qua các điều luật cho họ mà không được họ tán thành.[170] Newfoundland quay lại tình trạng thuộc địa vào năm 1933 do các khó khăn tài chính trong Đại khủng hoảng.[171] Ireland tách xa Anh hơn nữa khi đưa ra mộthiến pháp mới vào năm 1937, theo đó Ireland thực tế trở thành một quốc gia cộng hòa.[172]
Anh tuyên chiến vớiĐức vào tháng 9 năm 1939, điều này bao gồm cả cácthuộc địa vương thất và Ấn Độ song điều này lại không liên quan đến các quốc gia tự trị. Úc, Canada, New Zealand, Newfoundland và Nam Phi đều nhanh chóng tuyên chiến với Đức, songQuốc gia Tự do Ireland lựa chọn duy trìtrung lập pháp lý trong suốt chiến tranh.[173]
Sau khiĐức chiếm đóng Pháp vào năm 1940, Anh và đế quốc của mình cô độc chống lại Đức cho đến khiLiên Xô tham chiến vào năm 1941. Thủ tướng AnhWinston Churchill vận động thành công Tổng thốngFranklin D. Roosevelt để Hoa Kỳviện trợ quân sự, tuy nhiên Roosevelt vẫn chưa sẵn sàng yêu cầuQuốc hội đồng ý cho nước Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh này.[174] Trong tháng 8 năm 1941, Churchill và Roosevelt đã họp và ký kếtHiến chương Đại Tây Dương, trong đó gồm có tuyên bố "quyền của toàn bộ các dân tộc được lựa chọnhình thức chính phủ mà họ cư trú" cần được tôn trọng. Diễn tả này không rõ ràng về việc nó ám chỉ các quốc gia châu Âu bị Đức xâm chiếm, hay các dân tộc bị các quốc gia châu Âu thuộc địa hóa và sau này được giải thích khác nhau từ người Anh, người Mỹ và các phong trào dân tộc.[175][176]
Trong tháng 12 năm 1941,Nhật Bản phát động tấn côngMalaya thuộc Anh, căn cứ hải quân của Hoa Kỳ tạiTrân Châu Cảng vàHồng Kông. Phản ứng của Churchill trước việc Hoa Kỳ tham chiến là Anh lúc này cầm chắc chiến thắng và tương lai của đế quốc là an toàn,[177] tuy nhiên cách thức mà người Anh nhanh chóng đầu hàng Nhật Bản đã hủy hoại hoàn toàn địa vị và uy tín của đế quốc Anh.[178][179] Thất bại gây ra ảnh hưởng nặng nề nhất đối với uy tín của đế quốc Anh đó là việc để choSingapore thất thủ, hòn đảo này trước đó được ca ngợi là một pháo đài bất khả xâm phạm và là một Gibraltar ở phương Đông.[180] Nhận thức rằng Anh không thể bảo vệ toàn bộ đế quốc, Úc và New Zealand thiết lập các quan hệ mật thiết hơn với Hoa Kỳ sau khi xuất hiện các mối đe dọa từ lực lượng Nhật Bản. Kết quả làHiệp ước ANZUS 1951 giữa Úc, New Zealand và Hoa Kỳ.[175]
Mặc dù Anh và đế quốc là bên chiến thắng trongChiến tranh thế giới thứ hai, song cuộc chiến tranh này đã có tác động sâu sắc đến cả trong nước và hải ngoại. Phần lớn châu Âu—một lục địa chi phối thế giới trong vài thế kỷ—đã bị đổ nát và là nơi đóng quân của quân đội Hoa Kỳ vàLiên Xô, hai quốc gia này giờ đây nắm giữ cân bằng quyền lực toàn cầu.[181] Sau chiến tranh, nước Anh về cơ bản là đã phá sản, tình trạng không trả được nợ chỉ được ngăn chặn vào năm 1946 sau khi dàn xếp được mộtkhoản vay 4,33 tỷ USD từ Hoa Kỳ,[182] phần thanh toán cuối cùng của nó được hoàn trả vào năm 2006.[183]
Đương thời, các phong trào chống thực dân nổi lên trong các thuộc địa của các quốc gia châu Âu. Tình thế càng thêm phức tạp do cuộcChiến tranh Lạnh gây ra sự kình địch ngày càng tăng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Về mặt nguyên tắc thì cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều phản đối chủ nghĩa thực dân châu Âu Phát biểu "gió đổi chiều" với ý nghĩa chủ yếu đó là những ngày tháng của Đế quốc Anh sẽ không còn bao lâu nữa và trên tất cả, Anh chấp thuận một chính sách giải thoát hòa bình với các thuộc địa của mình miễn là chúng có các chính phủ ổn định, phi cộng sản để chuyển giao quyền lực. Điều này tương phản với các cường quốc châu Âu khác như Pháp và Bồ Đào Nha,[184] là những quốc gia tiến hành các cuộc chiến tranh tốn kém và cuối cùng không thành công để giữ đế quốc của họ được nguyên vẹn. Từ năm 1945 đến năm 1965, số lượng người nằm dưới sự cai trị của nước Anh và nằm ngoài Vương quốc Anh giảm từ 700 triệu xuống còn năm triệu, ba triệu trong số đó là tại Hồng Kông.[185]
Khoảng 14.5 triệu người mất nhà mất cửa là hậu quả củaSự chia cắt Ấn Độ năm 1947.
Chính phủCông đảng ủng hộ phi thuộc địa hóa đắc cử trongtổng tuyển cử năm 1945 và nằm dưới quyềnClement Attlee, họ hành động nhanh chóng nhằm giải quyết vấn đề cấp thiết nhất mà đế quốc đối diện:Ấn Độ độc lập.[186] Hai chính đảng chủ yếu của Ấn Độ làĐảng Quốc Đại Ấn Độ vàLiên minh người Hồi giáo tiến hành vận động về độc lập trong nhiều thập niên, song bất đồng về cách thức thực hiện. Đảng Quốc Đại tán thành một quốc gia Ấn Độ thế tục thống nhất, trong khi Liên minh người Hồi giáo thì lo ngại ưu thế từ người Ấn Độ giáo chiếm đa số, họ yêu cầu mộtquốc gia Hồi giáo riêng biệt cho các khu vực mà người Hồi giáo chiếm đa số.Bất ổn dân sự ngày càng gia tăng và một cuộcbinh biến củaHải quân Hoàng gia Ấn Độ nổ ra vào năm 1946 khiến Clement Attlee cam kết rằng họ sẽ có được nền độc lập trước ngày 30 tháng 6 năm 1948. Khi mà tình hình trở nên khẩn cấp và nguy cơ về một cuộc nội chiến trở nên hiện hữu, Phó vương mới được bổ nhiệm (và cuối cùng) làLouis Mountbatten vội vàng đẩy nhanh tiến trình lên ngày 15 tháng 8 năm 1947.[187] Biên giới do người Anh vẽ về đại thểphân chia Ấn Độ thành các khu vực của người Ấn Độ giáo và người Hồi giáo, khiến cho hàng chục triệu người trở thành nhóm thiểu số tại các quốc gia mới là Ấn Độ vàPakistan.[188] Hàng triệu người Hồi giáo sau đó đi từ Ấn Độ sang Pakistan và người Ấn Độ giáo đi theo chiều ngược lại và xung đột giữa hai cộng đồng làm thiệt mạng hàng trăm nghìn người. Miến Điện, vốn được cai trị như là một phần củaẤn Độ thuộc Anh, vàSri Lanka giành được độc lập vào năm 1948. Ấn Độ, Pakistan vàSri Lanka trở thành các thành viên củaThịnh vượng chung, trong khi Miến Điện lựa chọn không tham gia.[189]
Tại khu vựclãnh thổ ủy thác Palestine của Anh nơi có đa số người Ả Rập cư trú cạnh một nhóm thiểu số người Do Thái, người Anh cũng phải đối diện với một vấn đề tương tự như tại Ấn Độ.[190] Vấn đề phức tạp ở đây đo là do một lượng lớnngười tị nạn Do Thái tìm cách để đến được Palestine saunạn diệt chủng, trong khi người Ả Rập phản đối thành lập một quốc gia Do Thái. Nản lòng trước khó khăn của vấn đề, các cuộc tấn công từ các tổ chức bán quân sự Do Thái và gia tăng chi phí duy trì hiện diện quân sự, đến năm 1947 Anh tuyên bố rằng họ sẽ triệt thoái vào năm 1948 và để lại vấn đề cho Liên Hợp Quốc giải quyết.[191]Đại hội đồng Liên Hợp Quốc sau đó bỏ phiếu cho mộtkế hoạch phân chia Palestine thành một quốc gia Do Thái và một quốc gia Ả Rập.
Sau thất bại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế khởi thứ hai, cácphong trào kháng Nhật tại Malaya chuyển chú ý của họ về phía Anh, còn Anh hành động nhanh chóng để tái kiểm soát thuộc địa này, vốn coi trọng nó như là một nguồn cung cấp cao su và thiếc.[192] Thực tế rằng các chiến sĩ du kích chủ yếu là người cộng sảngốc Hoa, điều này khiến cho nỗ lực của Anh nhằm dập tắt cuộc nổi dậy nhận được sự ủng hộ từ nhữngngười Mã Lai theo Hồi giáo vốn chiếm đa số, với điều kiện là một khi cuộc nổi dậy bị dập tắt thì họ sẽ được công nhận nền độc lập.[192]Tình trạng khẩn cấp Malaya bắt đầu vào năm 1948 và kéo dài cho đến năm 1960, song đến năm 1957 thì Anh cảm thấy đủ tin tưởng để cấp độc lập choLiên bang Malaya trong khối Thịnh vượng chung. Năm 1963, 11 bang của liên bang cùng với Singapore, Sarawak vàBắc Borneo hợp nhất thànhMalaysia, tuy nhiên đến năm 1965 thì Singapore vốn có đa số cư dân là người Hoa bị trục xuất khỏi liên minh sau các xung đột giữa cư dân Mã Lai và Hoa.[193]Brunei là một lãnh thổ bảo hộ của Anh từ năm 1888, từ chối gia nhập liên minh[194] và duy trì tình trạng này cho đến khi độc lập vào năm 1984.
Thủ tướng AnhAnthony Eden quyết định xâm chiếm Ai Cập trongKhủng hoảng Suez, điều này kết thúc sự nghiệp chính trị của ông và biểu lộ điểm yếu của Anh với vị thế một thế lực đế quốc.
Năm 1951,Đảng Bảo thủ quay lại nắm quyền tại Anh, dưới sự lãnh đạo củaWinston Churchill. Churchill và những người Bảo thủ cho rằng vị thế cường quốc thế giới của Anh dựa trên việc đế quốc tiếp tục tồn tại, cùng với căn cứ tạiKênh đào Suez cho phép Anh duy trì vị thế ưu việt của mình tại Trung Đông bất chấp việc để mất Ấn Độ. Tuy nhiên, Churchill không thể lờ đi việcchính phủ cách mạng mới củaGamal Abdul Nasser tại Ai Cậpvừa giành được chính quyền từ năm 1952 và năm sau đó Anh đã phải chấp thuận rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái khỏi khu vực Kênh đào Suez và rằngSudan sẽ được trao quyền tự quyết vào năm 1955, cùng với nền độc lập tiếp theo đó.[195] Sudan đã được trao trả độc lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1956.
Trong tháng 7 năm 1956, Nasser đơn phương quốc hữu hóa Kênh đào Suez. Vị Thủ tướng Anh đương thời làAnthony Eden đã đáp trả bằng cách thông đồng với Pháp để sắp đặt một cuộc tấn công của Israel vàoAi Cập, điều này sẽ tạo cho Anh và Pháp một cái cớ để can thiệp quân sự và tái chiếm kênh đào.[196] Eden chọc giận Tổng thống Hoa KỳDwight D. Eisenhower do nhân vật này không được thương nghị và vì thế Eisenhower từ chối ủng hộ cuộc xâm lược.[197] Một lo ngại khác của Eisenhower đó là khả năng về một cuộc chiến tranh quy mô lớn vớiLiên Xô sau khi quốc gia này đe dọa can thiệp bằng cách đứng về phía Ai Cập. Eisenhower áp dụngđòn bẩy tài chính bằng cách đe dọa bán nguồn dự trữ bằng đồngbảng Anh của Hoa Kỳ và do đó gây ra sự phá giá đối với đồng Bảng của nước Anh.[198] Mặc dù đạo quân xâm lược đã đạt được thành công về quân sự đối với mục tiêu của mình,[199] song can thiệp của Liên Hợp Quốc và áp lực của Hoa Kỳ đã buộc Anh phải triệt thoái lực lượng của mình một cách nhục nhã và Eden đã phải từ chức
CuộcKhủng hoảng Suez đã thực sự phơi bày một cách công khai các hạn chế của nước Anh trên thế giới và đã chứng thực cho sự suy tàn của đế quốc Anh trên vũ đài thế giới, không những thế nó còn cho thấy rõ rằng từ nay về sau họ không còn có thể hành động mà không có ít nhất là sự đồng ý, nếu không phải là sự ủng hộ hoàn toàn, của Hoa Kỳ.[200][201][202] Các sự kiện tại Suez đã làm tổn thương đến sựkiêu hãnh quốc gia của Anh, khiến một nghị viên miêu tả nó như "Waterloo của Anh"[203] và những người khác thì cho rằng quốc gia đã trở thành một "vệ tinh" của Hoa Kỳ".[204]Margaret Thatcher sau đó đã miêu tả lối suy nghĩ mà bà tin rằng đã xảy đến cho các nhà lãnh đạo chính trị Anh như là "Hội chứng Suez", mà khiến cho họ "đi từ tin rằng nước Anh có thể làm bất cứ điều gì tới một niềm tin gần như thần kinh rằng nước Anh không thể làm được gì cả",[205] từ đó Anh không phục hồi cho đến khi tái chiếm thành côngquần đảo Falkland từArgentina vào năm 1982.[206]
Khủng hoảng Suez khiến quyền lực của Anh tại Trung Đông bị suy yếu, song nó không sụp đổ.[207] Anh lại triển khai quân đội đến khu vực này, tiến hành can thiệp tạiOman (1957),Jordan (1958) vàKuwait (1961), song các trường hợp này có sự tán thành của Hoa Kỳ,[208] do chính sách đối ngoại của tân thủ tướngHarold Macmillan là duy trì liên kết vững chắc với Hoa Kỳ.[203] Anh duy trì sự hiện diện quân sự tại Trung Đông trong nhiều thập niên sau. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1968, một vài tuần sau sự kiệnphá giá đồng Bảng, Thủ tướng AnhHarold Wilson vàBộ trưởng Quốc phòngDenis Healey tuyên bố rằng binh sĩ Anh sẽ triệt thoái khỏi các căn cứ quân sự trọng yếu tại phíađông của Suez, vốn gồm các căn cứ tại Trung Đông và chủ yếu là từMalaysia và Singapore.[209] Vào thời điểm đó hơn 50.000 quân nhân Anh vẫn còn đóng quân ở vùng Viễn Đông, bao gồm 30.000 ở Singapore.[210] Anh triệt thoái khỏiAden vào năm 1967,Bahrain vào năm 1971 vàMaldives vào năm 1976.[211]
Macmillan đưa ra mộtphát biểu tạiCape Town, Nam Phi vào tháng 2 năm 1960, ông nói "gió đổi chiều thổi qua lục địa này."[212] Macmillan muốn tránh điều tương tự nhưchiến tranh thuộc địa mà Pháp chiến đấu tạiAlgérie và quá trình phi thuộc địa hóa được tiến hành nhanh chóng trong nhiệm kỳ thủ tướng của ông.[213] Trong thập niên 1950, có ba thuộc địa làSudan,Bờ Biển Vàng vàMalaya giành được độc lập, con số trong thập niên 1960 gấp gần mười lần.[214]
Các thuộc địa còn lại của Anh tại châu Phi, ngoại trừNam Rhodesiatự quản, đều được trao trả độc lập cho đến trước năm 1968. Anh triệt thoái khỏi các khu vực miền nam và miền đông của châu Phi không phải là một quá trình hòa bình. Kenya đã giành được độc lập của sau cuộckhởi nghĩa Mau Mau kéo dài tám năm. TạiRhodesia,Tuyên ngôn độc lập đơn phương vào năm 1965 của cộng đồng thiểu số da trắng đã dẫn đến một cuộcnội chiến kéo dài cho đến khiHiệp định Lancaster House được kí kết vào năm 1979, với các điều khoản để công nhận nền độc lập vào năm 1980, cùng với đó là một quốc gia mới có tên gọi làZimbabwe đã được thành lập.[215]
Quá trình phi thuộc địa hóa của Anh tại châu Phi. Đến cuối thập niên 1960, ngoại trừRhodesia (sau là Zimbabwe) và lãnh thổ ủy thác của Nam Phi làTây-Nam Phi (Namibia) thì tất cả đều giành được độc lập.
Tại Địa Trung Hải, một chiến tranh du kích do nhữngngười Síp gốc Hy Lạp tiến hành kết thúc bằng một quốc giaSíp độc lập vào năm 1960, tuy nhiên, Anh vẫn duy trì cáccăn cứ quân sựAkrotiri và Dhekelia. Các đảoMalta vàGozo tại Địa Trung Hải được trao trả độc lập một cách hữu nghị từ Anh vào năm 1964, bất chấp ý tưởng nổi lên vào năm 1955 về việchợp nhất với Anh.[216]
Hầu hết lãnh thổ của Anh tạiCaribe đều đã giành được độc lập sau khiJamaica vàTrinidad rút khỏiLiên bang Tây Ấn lần lượt vào năm 1961 và 1962. Liên bang Tây Ấn được thành lập vào năm 1958 trong một nỗ lực nhằm hợp nhất các thuộc địa của Anh tại Caribe dưới một chính phủ, song điều này sụp đổ sau khi liên bang mất hai thành viên lớn nhất.[217]Barbados giành được độc lập vào năm 1966 và các đảo Đông Caribe còn lại giành độc lập trong các thập niên 1970 và 1980,[217] songAnguilla vàQuần đảo Turks và Caicos lựa chọn trở lại quyền kiểm soát của Anh sau khi họ đã sẵn sàng bắt đầu con đường độc lập.[218]Quần đảo Virgin thuộc Anh,[219]Quần đảo Cayman vàMontserrat lựa chọn duy trì các quan hệ với Anh,[220] trong khiGuyana giành độc lập vào năm 1966. Thuộc địa cuối cùng của Anh trên đại lục châu Mỹ làHonduras thuộc Anh trở thành mộtthuộc địa tự quản vào năm 1964 và đổi tên thànhBelize vào năm 1973, nó giành được độc lập hoàn toàn vào năm 1981. Mộttranh chấp với Guatemala về chủ quyền đối với Belize đã không được giải quyết.[221]
Các lãnh thổ của Anh tại Thái Bình Dương giành độc lập trong thập niên 1970, bắt đầu vớiFiji vào năm 1970 và kết thúc vớiVanuatu vào năm 1980. Nền độc lập của Vanuatu đã bị trì hoãn do xung đột chính trị giữa các cộng đồng Anh ngữ và Pháp ngữ, bởi vì quần đảo này chịu sựquản trị chung của Anh và Pháp.[222] Fiji,Tuvalu,quần đảo Solomon vàPapua New Guinea đã lựa chọn trở thànhVương quốc Khối thịnh vượng chung.
Trung tâm hội nghị triển lãm Hồng Kông là nơi tổ chức lễ kỷ niệm chuyển giao chủ quyền đối với Hồng Kông từ Anh cho Trung Quốc vào năm 1997, đánh dấu tượng trưng cho "sự kết thúc của Đế quốc Anh".
Năm 1980, Rhodesia, thuộc địa châu Phi cuối cùng của nước Anh, trở thành quốc gia độc lập Zimbabwe. Tân Hebrides cũng giành được độc lập (trở thành Vanuatu) vào năm 1980, và Belize nối tiếp giành độc lập vào năm 1981.Đạo luật Quốc tịch Anh 1981 được thông qua, trong đó tái xác định các thuộc địa vương thất còn lại là "các lãnh thổ phụ thuộc Anh" (đổi tên thànhLãnh thổ hải ngoại thuộc Anh vào năm 2002)[223] có nghĩa là ngoài các đảo và tiền đồn nằm rải rác (và năm 1955 thu được đá không người tạiRockall tại Đại Tây Dương),[224] quá trình phi thuộc địa hóa vốn bắt đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai phần lớn đã hoàn thành. Năm 1982, quyết tâm của Anh trong bảo vệ các lãnh thổ hải ngoại còn lại đã bị thử thách khiArgentinaxâm chiếmquần đảo Falkland, dựa trên tuyên bố có từ thờiĐế quốc Tây Ban Nha.[225] Phản ứng quân sự thành công chung cuộc của Anh để tái chiếm quần đảo được nhiều người nhận định là góp phần làm đảo nghịch xu thế đi xuống của vị thế nước Anh trong vai trò là một cường quốc thế giới.[226] Trong cùng năm, chính phủ Canada đoạn tuyệt liên kết tư pháp cuối cùng của họ với Anh khichuyển quyền với hiến pháp Canada khỏi Anh.Quốc hội Anh thông quaĐạo luật Canada 1982, kết thúc sự cần thiết Anh tham gia vào thay đổi hiến pháp Canada.[21] Tương tự như vậy,Đạo luật Hiến pháp 1986 được thông qua nhằm cắt đứt liên kết giữa hiến pháp Anh với hiến pháp của New Zealand,Đạo luật Úc 1986 cắt đứt liên kết giữa hiến pháp Anh và hiến pháp các bang của Úc.[227]
Anh duy trì chủ quyền đối với 14 lãnh thổ bên ngoài Quần đảo Anh, chúng được đổi tên thành cáclãnh thổ hải ngoại thuộc Anh vào năm 2002.[234] Một số lãnh thổ không có cư dân ngoại trừ các nhân viên quân sự hoặc khoa học tạm thời; các lãnh thổ còn lại được tự quản tại mức độ khác nhau và dựa vào Anh vềđối ngoại và phòng thủ. Chính phủ Anh tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ bất kỳ lãnh thổ hải ngoại nào muốn theo đuổi độc lập.[235] Chủ quyền của Anh đối với một vài lãnh thổ hải ngoại bị tranh chấp: Tây Ban Nha yêu sách vớiGibraltar,Argentina yêu sách với quần đảo Falkland vàNam Georgia và Quần đảo Nam Sandwich vàMauritius cùngSeychelles yêu sách vớiLãnh thổ Ấn Độ Dương thuộc Anh.[236]Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Anh chồng lấn với các yêu sách của Argentina vàChile, trong khi nhiều quốc gia không công nhận bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào tạichâu Nam Cực.[237]
Tòa nhà Nghị viện ở Canberra, Úc.Hệ thống Westminster của Anh đã để lại một di sản là nền dân chủ nghị viện ở nhiều thuộc địa cũ.
Trong nhiều thập niên và trong một số trường hợp là nhiều thế kỷ, sự cai trị và di cư của người Anh để lại dấu ấn tại các quốc gia độc lập phát sinh từ Đế quốc Anh. Đế quốc thiết lập việc sử dụng tiếng Anh tại các khu vực khắp thế giới. Ngày nay, đây là ngôn ngữ chủ yếu của đến 400 triệu người và được khoảng một tỷ rưỡi người nói như ngôn ngữ thứ nhất, thứ nhì hoặc ngoại ngữ.[240]
Sự truyền bá của tiếng Anh từ nửa cuối của thế kỷ XX là nhờ một phần vào ảnh hưởng văn hóa của Hoa Kỳ, bản thân quốc gia này hình thành từ các thuộc địa của Anh. Ngoại trừ tại châu Phi nơi gần như toàn bộ các cựu thuộc địa chọn hệ thốngtổng thống chế,hệ thống nghị viện Anh đóng vai trò là khuôn mẫu cho chính phủ của nhiều cựu thuộc địa vàthông luật Anh đối với các hệ thống tư pháp.[241]
Chơicricket tại Ấn Độ. Các môn thể thao có nguồn gốc từ Anh tiếp tục được ủng hộ nhiệt tình tại các bộ phận khác nhau của cựu Đế quốc.
Ủy ban Tư pháp Xu mật viện vẫn đóng vai trò là tòa án tối cao về phúc thẩm của một vài cựu thuộc địa tại Caribe và Thái Bình Dương. Cácnhà truyền giáo Tin Lành của Anh đi khắp thế giới trước các binh sĩ và công chức để truyền bá cácnhóm đạo Anh giáo đến tất cả lục địa. Kiến trúc thuộc địa Anh, như trong các nhà thờ, ga xe lửa và tòa nhà chính phủ, có thể trông thấy được tại nhiều thành phố từng là bộ phận của Đế quốc Anh.[242]
Các môn thể thao cá nhân và đồng đội phát triển tại Anh, đặc biệt làbóng đá,cricket,bóng bầu dục,quần vợt sân cỏ và golf—cũng được xuất khẩu.[243] Lựa chọn của Anh về hệ thống đo lường,hệ thống đế quốc, tiếp tục được sử dụng tại một số quốc gia theo các cách thức khác nhau. Quy tắcđi xe bên trái đường được duy trì tại phần lớn cựu đế quốc.[244]
Biên giới chính trị do người Anh vẽ không phải luôn phản ánh đồng nhất dân tộc hoặc tôn giáo, góp phần vào các xung đột tại các khu vực cựu thuộc địa. Đế quốc Anh cũng chịu trách nhiệm đối với sự di cư của các dân tộc. Hàng triệu người rời khỏi Quần đảo Anh, với các dân định cư sáng lập của Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand chủ yếu đến từ Anh và Ireland. Căng thẳng giữa dân định cư da trắng trong các quốc gia này với các cộng đồng thiểu số bản địa của họ và giữa các cộng đồng thiểu số định cư da trắng và cộng đồng đa số bản địa tại Nam Phi và Zimbabwe. Những người định cư tại Ireland từ Anh để lại dấu ấn của họ bằng việc hình thành các cộng đồngdân tộc chủ nghĩa vàliên minh chủ nghĩa tạiBắc Ireland. Hàng triệu người chuyển đi và từ các thuộc địa Anh, với số lượng lớnngười Ấn Độ di cư đến các bộ phận khác của đế quốc, nhưMalaysia vàFiji và người Hoa đến Malaysia, Singapore và Caribe.[245] Nhân khẩu tại Anh biến hóa sau Chiến tranh thế giới thứ hai donhập cư đến Anh từ các cựu thuộc địa của mình.[246]
^Hosch, William L. (2009).World War I: People, Politics, and Power. America at War. New York: Britannica Educational Publishing. tr. 21.ISBN978-1-61530-048-8.
Clegg, Peter (2005). "The UK Caribbean Overseas Territories". Trong de Jong, Lammert; Kruijt, Dirk (biên tập).Extended Statehood in the Caribbean. Rozenberg Publishers.ISBN90-5170-686-3.{{Chú thích sách}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
1 Vào năm 1931, Canada và nhữnglãnh địa thuộc Anh khác đã có được chính quyền tự chủ thông quaĐạo luật Westminster. 'Lãnh địa' còn là quyền sở hữu hợp pháp của Canada; xemTên của Canada. 2 Vẫn còn là một lãnh địade jure cho đến 1949 (khi nó trở thành mộttỉnh của Canada); từ 1934 đến 1949, Newfoundland doỦy ban Chính phủ quản lý.
9 Lãnh thổ phụ thuộc St. Helena từ năm 1922 (Đảo Ascension) và 1938 (Tristan da Cunha). 10 Cả hai tuyên bố vào năm 1908; lãnh thổ hình thành năm 1962 (Lãnh thổ Nam cực thuộc Anh) và 1985 (Quần đảo Nam Georgia và Nam Sandwich). 11 Argentina chiếm đóng trongChiến tranh Falklands vào tháng 4-tháng 6 năm 1982.