Đại tá là danh xưng cấp bậc quân hàm sĩ quan cao cấp, chỉ dưới cấp bậctướng lĩnh trong lực lượng quân sự của nhiều quốc gia. Trong một số quốc gia có lực lượng quân sự nhỏ hơn, chẳng hạn như củaMonaco hoặcThành Vatican,Đại tá là cấp bậc cao nhất.
Thông thường, danh xưng Đại tá trong tiếng Việt được dùng để chuyển ngữ cho các cấp bậc sau trong hệ thống quân hàm các lực lượng vũ trang quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, các tài liệu phương Tây thường xếp cấp bậc Đại tá trongLực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vào phân hạngOF-6 trongHệ thống cấp bậc quân sự khối NATO.[1] Phân hạng này xếp trên phân hạngOF-5 - tương đương cấp bậcColonel của lục quân phương Tây. Nhiều tài liệu Anh ngữ dùng thuật ngữSenior colonel để chỉ cấp bậc Đại tá trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, nhằm so sánh sự tương đương với cấp bậcBrigadier (OF-6) trong Lục quân Anh.[2] Tương tự, thuật ngữSenior captain cũng được dùng để chỉ riêng cấp bậc Đại tá Hải quân của Việt Nam, tương đương cấp bậcCommodore của Hải quân Anh. Đây đều là những cấp bậc tương đươngChuẩn tướng nhưng không được xếp vào hàngtướng lĩnh.
Trước thập niên 1940, người Việt thường gọi nôm na các sĩ quan Pháp có danh xưngColonel (bao gồm cảColonel vàLieutenant-colonel) làquan năm, theo cấp hiệu 5 vạch (còn gọi là lon, gốc từ chữgalon trongtiếng Pháp) của các sĩ quan này. Trong một số trường hợp, các sĩ quan mang cấp bậcLieutenant-colonel còn được gọi làquan năm khoanh trắng, do trên cấp hiệu có các vạch vàng - trắng xen kẽ, nhằm để phân biệt với các sĩ quan mang cấp bậcColonel vốn có cấp hiệu 5 vạch đồng màu.
Đầu thập niên 1940, khiquân Nhật tiến vào Đông Dương thuộc Pháp, danh xưngĐại tá xuất hiện trong tiếng Việt dùng để chỉ cấp bậcTaisa (大佐) củaLục quân Đế quốc Nhật Bản, được xem là tương đương với cấp bậcColonel trongLục quân Pháp. Cũng trong thời kỳ này, danh xưngTrung tá cũng bắt đầu được dùng để chỉ cấp bậcChūsa (中佐) của Nhật Bản và được xem là tương đương với cấp bậcLieutenant-colonel của Pháp.
Sau khiCách mạng tháng 8 thành công, chính quyềnViệt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Một trong những mối quan tâm của chính quyền Việt Nam non trẻ là xây dựng một lực lượng quân đội quốc gia để bảo vệ thành quả nền độc lập vừa giành được. Ngày 22 tháng 4 năm 1946, Sắc lệnh số 33/SL được ban hành, ấn định các cấp bậc, quân phục, phù hiệu, cấp hiệu cho lục quân của toàn quốc. Theo đó, cấp Đại tá được xếp là cấp cao nhất của sĩ quan bậc Tá, chỉ dưới bậc Tướng; đồng thời cũng quy định chức vụ chỉ huy của sĩ quan cấp Đại tá là Đại đoàn trưởng hoặc Đại đoàn phó. Cấp hiệu Đại tá cũng được quy định là 3 lon vàng và 1 sao vàng trên nền đỏ.[3]
Sau khichiến tranh bùng nổ, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rút về các chiến khu để tiếp tục chỉ đạo kháng chiến. Ngày 15 tháng 2 năm 1948, Sắc lệnh số 131/SL được ban hành, theo đó, cấp bậc Đại tá được phân thành 2 hạng: Hạng Nhất và hạng Nhì.[4] Bốn ngày sau, 7 cán bộ quân sự được phong quân hàm Đại tá hạng Nhất gồmVũ Hiển – Trưởng phòng Tác chiến kiêm quyền Tổng tham mưu phó;Phạm Trinh Cán – quyền Cục trưởng Cục Quân pháp;Vũ Văn Cẩn – Cục trưởng Cục Quân y;Trần Dụ Châu – Cục trưởng Cục Quân nhu;Lê Khắc – Cục trưởng Cục Công binh;Phan Tử Lăng – Cục trưởng Cục Quân chính; vàHoàng Minh Thảo – Tư lệnh phó Liên khu 3.[5]
Cấp bậc Đại tá Công an nhân dân Việt Nam lần đầu tiên được quy định bởi Nghị định 331/TTGngày 1 tháng 9 năm1959, quy định hệ thống cấp bậcCông an nhân dân vũ trang. Cấp hiệu Đại tá có 4 sao, 2 vạch.[6]
Trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa năm 1964, cấp Đại tá thường đảm nhiệm các chức vụ Sư đoàn trưởng hoặc Sư đoàn phó, có khi là Tư lệnh Quân đoàn hay binh chủng, được xếp vào hàng sĩ quan cao cấp, dưới cấp Thiếu tướng & trên cấp Trung tá. Từ saucuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh năm 1964, quân hàmChuẩn tướng hay còn gọi là tướng một sao được đặt ra để phong cho một số Đại tá có công trong các cuộc đảo chính, bấy giờ cấp Đại tá mới xếp sau cấp Chuẩn tướng.
Một số Đại tá nổi bật:
Hoàng Thụy Năm (?-1961), Trưởng phái đoàn liên lạc của chính quyền Sài Gòn tại Ủy hội Quốc tế Kiểm soát đình chiến.
Trong hệ thống quân hàm của Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 1982 - 1992 quân hàmThượng tá bị bãi bỏ, theo đó những sĩ quan cấp Thượng tá được mặc nhiên nâng thành Đại tá với quân hàm có 3, 2 vạch. Từ năm 1992 quân hàm thượng tá được khôi phục, theo đó quân hàmĐại tá trở lại với 4 sao, 2 vạch.
Cũng trong giai đoạn này, Pháp lệnh về lực lượng An ninh nhân dân Việt Nam ngày2 tháng 11 năm1987, quy định hệ thống cấp bậc An ninh nhân dân không có bậcThượng tá. Lúc này, cấp hiệuĐại tá An ninh nhân dân có 3 sao, 2 vạch.
Năm1989, Pháp lệnh về lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam ngày28 tháng 1 năm1989 quy định lại hệ thống cấp bậc Cảnh sát nhân dân tương tự như hệ thống cấp bậc An ninh nhân dân (tức là cũng không có bậcThượng tá).
Năm1992, 2 Pháp lệnh sửa đổi lại, khôi phục cấp bậcThượng tá đối với hệ thống cấp bậc của An ninh nhân dân và Cảnh sát nhân dân. Lúc nàyĐại tá có 4 sao thay vì 3 sao như trước năm1992.[8][9]
Từ năm1998, 2 ngạch An ninh nhân dân và Cảnh sát nhân dân sử dụng thống nhất một hệ thống cấp hiệu như ngày nay. Cấp hiệuĐại tá Công an nhân dân Việt Nam có 4 sao vàng, 2 vạch vàng.
Đối vớiCông an,Đại tá Công an nhân dân Việt Nam trênThượng tá (3 sao, 2 vạch) và dướiThiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam (1 sao). Sĩ quan cao cấp giữ cấp bậc hàm này thường đảm nhiệm các chức vụ từ Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trừ 2 thành phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh), Vụ trưởng, Cục trưởng đến Phó Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Tư lệnh cảnh vệ.
Trong một số cơ cấu tổ chức quân sự trên thế giới, mà không cócấp tướng lĩnh và không có cơ quan cấp trên quản lý ngoài chính phủ của quốc gia đó (chẳng hạn như nguyên thủ quốc gia với tư cách là tổng tư lệnh trên danh nghĩa), cấp bậc Đại tá là quân hàm sĩ quan cao cấp nhất của những nước này. Một số ví dụ được nêu ra dưới đây (sắp xếp tên các quốc gia theo thứ tựBảng chữ cái tiếng Anh)