Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Đại Việt sử ký toàn thư

Đây là một bài viết tốt. Nhấn vào đây để biết thêm thông tin.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xemToàn thư.
Đại Việt sử ký toàn thư
大越史記全書
Bìa sáchĐại Việt sử ký toàn thư, bản inNội các quan bản. Cột chữ bên phải làVựng lịch triều chi sự tích (góp nhặt sự tích của các triều đại đã qua). Cột chữ bên trái làCông vạn thế chi giám hoành (nêu gương chung công lao của vạn đời).
Thông tin sách
Tác giảSử quán triềuHậu Lê gồm cácsử quan tiêu biểu:Ngô Sĩ Liên,Vũ Quỳnh,Phạm Công Trứ,Lê Hy,Nguyễn Quý Đức
Quốc giaĐại Việt
Ngôn ngữVăn ngôn
Chủ đềLịch sử Việt Nam
Ngày phát hành1697[1]
Kiểu sáchLịch sử Việt Nam
Cuốn trướcĐại Việt sử ký
Cuốn sauĐại Việt sử ký tục biên,Khâm định Việt sử Thông giám cương mục

Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書), đôi khi gọi tắt làToàn thư, là bộ quốc sử viết bằngHán văn củaViệt Nam, viết theothể biên niên, ghi chép lịch sửViệt Nam từ thời đại truyền thuyếtKinh Dương Vương năm2879 TCN đến năm1675 đời vuaLê Gia Tông nhàHậu Lê. Hoàn thành lần đầu năm 1479, bộ sử này được bổ sung và khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào nămĐinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18, triều vuaLê Hy Tông, tức là năm 1697. Đây là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trongSử quán triều Hậu Lê biên soạn.

Bộ sử bắt đầu đượcNgô Sĩ Liên, một vị sử quan làm việc trongSử quán dưới thời vuaLê Thánh Tông, biên soạn dựa trên sự chỉnh lý và bổ sung hai bộ quốc sử Việt Nam trước đó cùng mang tênĐại Việt sử ký củaLê Văn HưuPhan Phu Tiên. Hoàn thành vào niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (1479), bộ sử mới của Ngô Sĩ Liên gồm 15 quyển, ghi lạilịch sử Việt Nam từ một thời điểm huyền thoại là năm 2879 TCN đến năm 1427 (khi nhàHậu Lê được thành lập) và mang tênĐại Việt sử ký toàn thư. Sau đó, dù đã hoàn thành,Đại Việt sử ký toàn thư lại không được khắc in để ban hành rộng rãi mà tiếp tục được nhiều đời sử quan trong Quốc sử quán sửa đổi, bổ sung và phát triển thêm. Khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1663 - 1671) đời vuaLê Huyền Tông, chúaTrịnh Tạc hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụngPhạm Công Trứ, sửa chữa bộ quốc sử của Ngô Sĩ Liên, đồng thời sai biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1428 đời vuaLê Thái Tổ đến năm 1662 đời vuaLê Thần Tông nhà Hậu Lê. Bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, gồm 23 quyển, được đem khắc in để phát hành nhưng công việc chưa xong, phải bỏ dở. Khoảng niên hiệuChính Hòa (1680 - 1705) đời vuaLê Hy Tông, chúaTrịnh Căn lại hạ lệnh cho một nhóm văn quan, đứng đầu là Tham tụngLê Hy, tiếp tục khảo đính bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử Việt Nam từ năm 1663 đời vuaLê Huyền Tông đến năm 1675 đời vuaLê Gia Tông nhà Hậu Lê. Bộ quốc sử này lấy tên làĐại Việt sử ký toàn thư, theo đúng tên mà sử gia Ngô Sĩ Liên cách đó gần haithế kỷ đã đặt cho bộ sử của ông, gồm 25 quyển, được khắc in toàn bộ và phát hành thành công vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 đời vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697.[2]

Sau khi xuất bản,Đại Việt sử ký toàn thư tiếp tục được tái bản bởi các hiệu in của chính quyền và tư nhân, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới, trong nhiều thế kỷ sau. Nửa cuối thế kỷ 20, ở Việt Nam xuất hiện các bản dịchĐại Việt sử ký toàn thư rachữ quốc ngữ, phổ biến nhất là bản dịch dựa trên cơ sở bản inNội các quan bản - hiện đang lưu giữ tại thư việnViện Viễn Đông Bác cổ ở Paris, doNhà Xuất bản Khoa học Xã hội phát hành lần đầu năm 1993.

Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác[3] và cũng là một bộ sử có giá trị văn học. Các bộ quốc sử sau này của Việt Nam nhưĐại Việt sử ký tiền biên,Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục đều được biên soạn dựa trên cơ sở củaĐại Việt sử ký toàn thư.

Quá trình biên soạn

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngô Sĩ Liên vàĐại Việt sử ký toàn thư bản Hồng Đức

[sửa |sửa mã nguồn]

Đại Việt sử ký toàn thư không phải là bộ quốc sử Việt Nam đầu tiên được biên soạn. Trước đó, một số thư tịch đã nhắc đếnSử ký史記 của Đỗ Thiện thờinhà Lý,[4]Việt chí越志 của Hàn trưởng Trần Phổ (hoặc Trần Tấn) thờinhà Trần.[5] BộĐại Việt sử ký大越史記 viết theothể biên niên củaLê Văn Hưu biên soạn và hoàn thành vào năm 1272 là bộ quốc sử Việt Nam sớm nhất được ghi nhận, ghi chép lịch sửĐại Việt từ thời đạiTriệu Vũ Đế năm 207 TCN đến hết năm 1225 đờiLý Chiêu Hoàng nhà Lý.[6] Dưới đời vuaLê Nhân Tông nhàHậu Lê,Phan Phu Tiên được giao nhiệm vụ biên soạn lịch sử từ năm 1226 đầu đờiTrần Thái Tông đến năm 1427 khi thời kìBắc thuộc lần 4 kết thúc, bộ quốc sử này cũng viết theo thể biên niên và mang tênĐại Việt sử ký.[7]

Nhà Hậu Lê tiếp tục trải qua một giai đoạn hoàng kim dưới sự trị vì củaLê Thánh Tông, một vị vua rất quan tâm đến văn hóa và giáo dục. Trong những năm đầu trị vì, nhà vua đã nhiều lần ra lệnh tìm kiếm, sưu tập thư tịch tài liệu lịch sử,[8] đồng thời ông cũng bổ nhiệm các học giả Nho gia vào Sử quán triều đình để chuẩn bị cho công việc biên soạn quốc sử.Ngô Sĩ Liên là một trong số các học giả đó.

Đỗ đồngTiến sĩ xuất thân trong khoa thi nămNhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 đời vuaLê Thái Tông (1442), Ngô Sĩ Liên từng giữ chức Đô Ngự sử đờiLê Nghi Dân và Lê Thánh Tông rồi bị giáng xuống làm Hữu Thị langbộ Lễ, Tư nghiệpQuốc Tử Giám kiêm chức Tu soạn ở Sử quán.[9] Trong vị trí của một sử quan, ông được giao nhiệm vụ biên soạn quốc sử cho triều đình theo mệnh lệnh của Lê Thánh Tông vào tháng 1 nămKỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10, tức là năm 1479.[10]

Ngô Sĩ Liên đã dựa vào hai bộ sử của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên để làm công việc đó. Ông cho rằng hai bộ sách của họ Lê và họ Phan tuy "rõ ràng, có thể xem được" nhưng "ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý".[8] Do vậy, ông đã sửa chữa chép lại hai bộ sách này "có việc nào sót quên thì bổ sung thêm vào, có lệ nào chưa đúng thì cải chính lại, văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi đi, gián hoặc có việc hay dở có thể khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê mùa ở sau". Ngô Sĩ Liên cũng giữ lại cho bộ sử nhiều lời bình của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên về các sự kiện lịch sử. Không chỉ sửa chữa sử cũ, Ngô Sĩ Liên còn bổ sung vào dòng chảy lịch sử Việt Nam thời đại họHồng Bàng, đưa nó trở thành thời đại đầu tiên trong lịch sử thay vìnhà Triệu như trongĐại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Trong quá trình biên soạn, bên cạnh các bộ chính sử trước đó và sử sách Trung Quốc,[11] Ngô Sĩ Liên cũng đã thu thập tư liệu từ nhiều nguồn khác, bao gồm dã sử, các bản truyện chí có thể làViệt điện u linh tập hayLĩnh Nam chích quái cùng với những lời truyền tụng. Tuy làtruyền thuyết và truyện dân gian nhưng chúng vẫn được Ngô Sĩ Liên xem là nguồn sử liệu đáng tin cậy.[12] Đây là lần đầu tiên các nguồn kiểu này được một nhà sử học Việt Nam sử dụng trong tác phẩm lịch sử.

Bộ quốc sử hoàn thành vào tiếtđông chí, khoảng tháng một năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10 (tức là ngày 13 tháng 12 năm 1479), bao quát lịch sử Việt Nam trong hơn bốn thiên niên kỷ, bắt đầu từ một thời điểm truyền thuyết 2879 TCN, dừng lại ở sự kiện quân Minh rút về Trung Quốc, kết thúcBắc thuộc lần 4 năm 1427. Bộ sử này được tác giả đặt tên làĐại Việt sử ký toàn thư. Tuy đã hoàn thành, nhưng công trình sử học này của ông không được khắc in để phát hành mà vẫn nằm lại trong Sử quán của triều đình dưới dạng bản thảo viết tay.[8]

Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chia thành hai phần làNgoại kỷ toàn thưBản kỷ toàn thư. PhầnNgoại kỷ bắt đầu từ họHồng Bàng đến hết năm 938, nămTiền Ngô Vương đại phá quânNam Hán trongtrận Bạch Đằng. PhầnBản kỷ bắt đầu từ năm 938, năm thành lậpnhà Ngô, đến hết năm 1427, năm kết thúc sự thống trị củanhà Minh trên đất Đại Việt. Cộng tất cả gồm 15 quyển.

Có thể liệt kê vai trò của Ngô Sĩ Liên trong tiến trình biên soạnĐại Việt sử ký toàn thư như sau:

  • Đặt tên cho bộ sử làĐại Việt sử ký toàn thư, tên này được triều đình Hậu Lê và sử thần các đời sau công nhận và tiếp thu, trở thành tên chính thức cho bộ quốc sử được khắc in vào năm 1697.
  • Bổ sung thời đại họ Hồng Bàng (gồmKinh Dương Vương,Lạc Long QuânHùng Vương) bằng một quyển đầu phầnNgoại kỷ toàn thư, trình bày lại tiến trình lịch sử Việt Nam, kéo dài từ họ Hồng Bàng (chứ không phải chỉ từ nhà Triệu) cho tới khi quân Minh về nước năm 1427.
  • Viết những lời bình luận các sự kiện lịch sử (gồm 174 đoạn),[13] ghi rõ "sử thần Ngô Sĩ Liên bàn" (史臣吳士連曰 - sử thần Ngô Sĩ Liên viết), viếtSách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư,Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư',Phàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư.

Ngoài ra, khi làm sử quan dưới triều Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên còn biên soạnTam triều bản kỷ 三朝本紀, ghi chép lịch sử ba triều vuaLê Thái Tổ,Thái TôngNhân Tông của nhà Hậu Lê.[14] Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn lịch sử triều Hậu Lê trong giai đoạn cai trị của ba vị vua này.[15] Trong văn bảnĐại Việt sử ký toàn thư bản inNội các quan bản, đầu quyển 11 phầnBản kỷ thực lục gồm lịch sử hai triều Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông cũng có ghi "Triều liệt Đại phuQuốc Tử Giám Tư nghiệp kiêm Sử quan Tu soạn, thần Ngô Sĩ Liên biên soạn".

Dưới triều đại củaLê Tương Dực,Vũ Quỳnh, Đô Tổng tài trong Sử quán, đã dâng lên nhà vua bộ sáchĐại Việt thông giám thông khảo (còn được gọi làĐại Việt thông giám hoặcViệt giám thông khảo), một bộ sử viết theothể biên niên ghi lại tiến trình lịch sử Việt Nam từ họ Hồng Bàng đến năm đầu niên hiệu Thuận Thiên của Lê Thái Tổ (1428), gồm 26 quyển vào tháng 4 năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3, tức là năm 1511.[16] Không có tư liệu cho ta biết Vũ Quỳnh đã biên soạnĐại Việt thông giám thông khảo dựa trên những nguồn nào, bản thân bộ sử này nay cũng không còn, nhưng có thể thấy nó chịu ảnh hưởng khá lớn từĐại Việt sử ký toàn thư bảnHồng Đức của Ngô Sĩ Liên.Đại Việt thông giám thông khảo có khung thời gian và bố cục, gồm hai phầnNgoại kỷBản kỷ, tương tự nhưĐại Việt sử ký toàn thư bản Hồng Đức. Tuy nhiên, Vũ Quỳnh chia phầnNgoại kỷ bắt đầu từ họ Hồng Bàng đến hết năm 967 thờiThập nhị sứ quân và phầnBản kỷ bắt đầu từ đờiĐinh Tiên Hoàng năm 968 đến năm đầu đời Lê Thái Tổ tức là năm 1428.[16] Trong cách phân chia các kỷ, Vũ Quỳnh cũng có quan điểm khác với Ngô Sĩ Liên, điển hình nhưKỷ thuộc Minh. Nếu Ngô Sĩ Liên coi giai đoạn từ năm 1414 đến năm 1427 là giai đoạn Minh thuộc thì Vũ Quỳnh, trong sáchĐại Việt thông giám thông khảo lại rút lại thời kì thuộc Minh chỉ trong 4 năm, từ năm 1414 đến năm 1418,[17] bởi lẽ năm 1418 là năm Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Nhóm Phạm Công Trứ đã tiếp thu cách chia đó của Vũ Quỳnh. Vũ Quỳnh cũng là người viết lời bình luận các sự kiện lịch sử (gồm 3 đoạn), ghi rõ "Sử thần Vũ Quỳnh bàn".

Ngoài ra, khi làm sử quan dưới triều Lê Tương Dực, Vũ Quỳnh còn được biết đến là người soạn sáchTứ triều bản kỷ (四朝本紀), ghi chép lịch sử bốn triều vua Lê Thánh Tông,Hiến Tông,Túc Tông,Uy Mục của nhà Hậu Lê.[14] Rất có thể đây là tài liệu quan trọng mà sau này nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn lịch sử triều Hậu Lê trong giai đoạn cai trị của bốn vị vua này.[18]

Khi vua Lê Tương Dực đọcĐại Việt thông giám thông khảo, muốn tóm tắt những điều cốt yếu của bộ sách cho tiện xem, đã sai một văn thần làLê Tung viếtViệt giám thông khảo tổng luận (越鑑通考總論). Bài tổng luận này sau đó đã được đưa vào quyển thủ củaĐại Việt sử ký toàn thư.

Nhóm Phạm Công Trứ vàĐại Việt sử ký toàn thư bản Cảnh Trị

[sửa |sửa mã nguồn]
Một trang trongĐại Việt sử ký Toàn thư

Khoảng những năm Cảnh Trị đời vuaLê Huyền Tông, một lần nữa triều đình nhà Hậu Lê lại khởi động biên soạn quốc sử. Công việc này được chúaTrịnh Tạc giao cho một nhóm văn quan, bao gồm:Phạm Công Trứ,Dương Hạo,Hồ Sĩ Dương,Nguyễn Quốc Trinh,Đặng Công Chất,Nguyễn Công Bích,Bùi Đình Viên,Đào Công Chính,Ngô Khuê,Nguyễn Đình Chính,Nguyễn Công Bật,Nguyễn Viết Thứ,Vũ Duy Đoán. Đứng đầu nhóm biên soạn này là Phạm Công Trứ.

Đỗđồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi nămMậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 đời vuaLê Thần Tông (1628), Phạm Công Trứ là một nhà chính trị tài năng, một công thần đầy danh vọng của triều đình lúc bấy giờ. Khi trở thành người chủ trì biên soạn quốc sử, ông đang giữ chức Thượng thưbộ Lại kiêmĐại học sĩ Đông các, tước Yên Quận công, làm Tham tụng (tương đương vớiTể tướng). Ông đã tập hợp xung quanh mình nhiều vị văn thần tiếng tăm đương thời, tất cả họ đều đã từng đỗ đạt trong các kìthi Hội và giữ chức vụ trong triều đình. Dương Hạo đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi nămCanh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 đời vua Lê Thần Tông (1640). Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Công Bật, Nguyễn Đình Chính đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi nămNhâm Thìn, niên hiệuKhánh Đức thứ 4 đời vua Lê Thần Tông (1652). Nguyễn Quốc Trinh,Nguyễn Công Bích đỗTrạng nguyênBảng nhãn trong khoa thi năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 đời vua Lê Thần Tông (1659). Hai năm sau, Đặng Công Chất, Đào Công Chính và Ngô Khuê theo thứ tự đỗTam khôi trong khoa thi nămTân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4 (1661). Nguyễn Viết Thứ và Vũ Duy Đoán vừa mới là hai vị tân tiến sĩ trong khoa thi nămGiáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664). Bùi Đình Viên là một trong năm người đỗ khoa thi Đông các năm 1659, khi đó đang giữ chức Học sĩ ở Đông các. Tất cả các soạn giả đều có học vấn uyên bác, tinh thông lịch sử, rất hăng hái lập ngôn viết sách để ca ngợi công tích của triều đình vua Lê chúa Trịnh.[19]

Họ có hai nhiệm vụ phải hoàn thành trong quá trình biên soạn bộ chính sử mới của Đại Việt. Nhiệm vụ thứ nhất là khảo đính các bộ quốc sử cũ ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời họ Hồng Bàng cho đến đời vuaLê Cung Hoàng nhà Hậu Lê.[20] Theo Phạm Công Trứ, các bộ sử cũ ở đây bao gồm trước tác của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh với khung thời gian từ họ Hồng Bàng đến đời Lê Thái Tổ và "sách trước" (前書 - tiền thư) với khung thời gian từ đời Lê Thái Tông đến đời Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê.[20] Trước tác của Ngô Sĩ Liên và Vũ Quỳnh có lẽ làĐại Việt sử ký toàn thư bản Hồng Đức vàĐại Việt thông giám thông khảo (tuy nhiên hai sách này dừng lại ở thời điểm năm 1428 chứ không phải đến hết đời Lê Thái Tổ năm 1433). Còn "sách trước" có lẽ là bản thảo của Quốc sử quán triều Hậu Lê, có thể làTam triều bản kỷ của Ngô Sĩ Liên vàTứ triều bản kỷ của Vũ Quỳnh, ghi chép lịch sử từ năm 1434 đầu đời Lê Thái Tông đến hết năm 1527 cuối đời Lê Cung Hoàng và thậm chí có thể cả trong khoảng 1527 – 1533 khi nhàLê trung hưng chưa thành lập. Giai đoạn này không được biên soạn chính thức mà chỉ tồn tại bản thảo ghi chép[19] nên chúng bị sử gia nhiều đời theo nhau sao lục nhầm lẫn mà Phạm Công Trứ gọi là tệ "hợi 亥 lầm rathỉ 豕,ngư 魚 lầm ralỗ 魯"[21] cho nên phải hiệu chỉnh lại để "rửa bỏ được thói quen theo nhau lâu dài ấy". Có thể thấy công tác khảo đính sử cũ của nhóm Phạm Công Trứ thuần túy là sửa chữa văn bản, ít thay đổi so với nguyên tác, đúng như họ đã tự nhận "gián hoặc thấy có chỗ nào sao chép sót sai, chữ nghĩa không chạy, thì suy tìm ý nghĩa mà sửa chữa một vài cho người đọc dễ hiểu, chứ không dám thêm thắt đoán chừng".[20]

Nhiệm vụ thứ hai là biên soạn tiếp nối quốc sử từ năm 1533 đầu đờiLê Trang Tông đến năm 1662 cuối đời Lê Thần Tông nhằm khắc in ban hành cho cả nước. Nguồn tư liệu mà nhóm Phạm Công Trứ dựa vào để biên soạn giai đoạn lịch sử này gồm "dã sử của Đăng Bính", "sách sót lại của người đương thời dâng hiến". Lai lịch sử gia Đăng Bính hiện nay chưa rõ ràng,[20] trongĐại Việt sử ký toàn thư còn ghi rõ một lời bàn khá dài của ông ở cuối phầnBản kỷ thực lục, trong đó ông tỏ rõ thái độ phê phánnhà MạcMạc Đăng Dung, bênh vực và ngợi ca nhà Lê trung hưng, đặc biệt còn làm một bài thơ tứ tuyệt Đường luật để thể hiện quan điểm của mình.[22] Trong sáchHoan châu ký của dòng họ Nguyễn Cảnh ởNghệ An, soạn giả "Nguyễn Cảnh Thị" cũng ghi lại được một bài thơ tứ tuyệt của Đăng Bính trong sáchSử ký dã biên (史記野編) với diện mạo khá giống, chỉ sai khác hai chữ.[23][24] Rất có thể "dã sử của Đăng Bính" chính là cuốnSử ký dã biên này. Như vậy, để biên soạn lịch sử 129 năm đầu của chính triều đại mình, ghi chép của các sử quan trong Sử quán là không đủ đối với nhóm Phạm Công Trứ, họ đã phải tìm đến khá nhiều các nguồn tư liệu bên ngoài triều đình.

Bộ quốc sử hoàn thành vào mùa thu năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Trị thứ 3, tức là năm 1665, được dâng lên vuaLê Huyền Tông và chúaTrịnh Tạc vào ngày mồng một tháng tám cùng năm (tức là ngày 9 tháng 9 năm 1665), bao quát lịch sử Việt Nam từ thời đại Hồng Bàng đến khi vua Lê Thần Tông băng hà vào năm 1662, dài hơn 235 năm so với khung thời gian củaĐại Việt sử ký toàn thư bản Hồng Đức.

Đại Việt sử ký toàn thư bản Cảnh Trị được chia thành hai phần giống như bản Hồng Đức làNgoại kỷBản kỷ. Tiếp thu cách chia của Vũ Quỳnh, phầnNgoại kỷ ở đây bắt đầu từ họ Hồng Bàng đến hết năm 967 khi nhà Đinh được thành lập, thống nhất đất nước. PhầnBản kỷ bắt đầu từ năm 968 đến hết năm 1662, lại chia thành ba phần nhỏ là:Bản kỷ toàn thư (từ năm 968 đờiĐinh Tiên Hoàng đến hết năm 1433 kết thúc triều đại Lê Thái Tổ),Bản kỷ thực lục (từ năm 1434 đời Lê Thái Tông đến hết năm 1527 khi nhàLê sơ sụp đổ, nhà Mạc thành lập và phụ chép lịch sử từ năm 1527 đến năm 1532 khi nhà Lê Trung Hưng chưa thành lập) vàBản kỷ tục tiên (từ năm 1533 đời Lê Trang Tông đến hết năm 1662 đời Lê Thần Tông). Cộng tất cả gồm 23 quyển.[20]

Có thể liệt kê vai trò của nhóm Phạm Công Trứ trong tiến trình biên soạnĐại Việt sử ký toàn thư như sau:

  • Hoàn thành cấu trúc bộ sử bằng cách phân chia làm hai phần làNgoại kỷBản kỷ, phần Bản kỷ lại chia làm 3 phần nhỏBản kỷ toàn thư, Bản kỷ thực lục, Bản kỷ tục biên, phân định lại ranh giới giữa các phần. Cấu trúc này sau đó được nhóm Lê Hy công nhận và tiếp thu.
  • Hiệu đính bộĐại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chỉnh lý phầnBản kỷ thực lục, viết mới phầnBản kỷ tục biên.
  • Bổ sungPhàm lệ Đại Việt sử ký toàn thư (篡修大越史記全書凣例 - Soán tu Đại Việt sử ký toàn thư phàm lệ) của Ngô Sĩ Liên, viếtPhàm lệ Tục biên (續編凣例 - Tục biên phàm lệ),Sách Đại Việt sử ký tục biên (大越史記續編書 - Đại Việt sử ký tục biên thư).

Bộ quốc sử sau khi biên soạn xong đã được khắc in, nhưng không rõ vì sao công việc bị đình trệ, "mười phần mới được độ năm sáu phần" (十纔五六 - thập tài ngũ lục); một lần nữa, nó lại bị cất vào Bí thư các - kho sách của triều đình.[25]

Năm1988, quyển 20 và quyển 21 của bộ sáchĐại Việt sử ký toàn thư bản Cảnh Trị đã được tìm thấy ở tủ sách gia đìnhNguyễn Văn Huyên. Có thể nói đây là một phần của bản sách inĐại Việt sử ký toàn thư cổ nhất được ghi nhận hiện nay.[26]

Nhóm Lê Hy vàĐại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hòa

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 1676, sau khi Phạm Công Trứ mất, triều đình lại giao công việc sửa quốc sử choHồ Sĩ Dương.[27] Năm 1681, Hồ Sĩ Dương mất, công việc quan trọng này được giao cho một nhóm văn thần gồmLê Hy,Nguyễn Quý Đức,Nguyễn Công Đổng,Vũ Thạnh,Hà Tông Mục,Nguyễn Hành,Nguyễn Trí Trung,Nguyễn Đương Bao,Nguyễn Mại,Nguyễn Hồ,Ngô Công Trạc,Trần Phụ Dực,Đỗ Công Bật. Đứng đầu nhóm biên soạn này là Lê Hy.

Đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 đời vuaLê Huyền Tông (1664), Lê Hy khi làm chủ trì biên soạn quốc sử đang làm Tham tụng, giữ chức Thượng thưbộ Hình kiêm quản lý Trung thư giám, tước Lai Sơn tử, đứng đầu quan lại trong triều đình bấy giờ. Đặc biệt, tham gia nhóm biên soạn lần này còn có tất cả năm vị Bồi tụng, đó là Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Đổng, Vũ Thạnh, Hà Tông Mục và Nguyễn Hành. Bảy người còn lại hoặc đang giữ chức Cấp sự trung ở Hộ khoa và Lại khoa hoặc làm việc trongHàn lâm viện và Chiêu văn quán.[25] Lẽ dĩ nhiên, tất cả họ đều đỗ Tiến sĩ Nho học qua các khoa thi. Nguyễn Trí Trung đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi nămCanh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 đời vua Lê Huyền Tông (1670). Nguyễn Đương Bao đỗ ở khoa thi ba năm sau, niên hiệu Dương Đức thứ 2 năm Quý Sửu đờiLê Gia Tông (1673). Khoa thi năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ 1 đờiLê Hy Tông (1676), Nguyễn Quý Đức đỗ đầu. Trần Phụ Dực đăng khoa trong niên hiệu Chính Hòa thứ 4 năm Quý Hợi đời Lê Hy Tông (1683). Vũ Thạnh, Nguyễn Công Đổng và Đỗ Công Bật là bạn đồng khoa trong khoa thi nămẤt Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1685). Nguyễn Hồ, Nguyễn Hành, Hà Tông Mục đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi năm Mậu Thìn niên hiệu Chính Hòa thứ 9 (1688). Nguyễn Mại và Ngô Công Trạc đỗ muộn nhất, họ đỗ trong khoa thi năm Tân Mùi niên hiệu Chính Hòa thứ 12 (1691) và khoa thi nămGiáp Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 15 (1694). Nhóm biên soạn lần này tập hợp được các vị soạn giả không những có học vấn uyên bác mà còn đầy quyền lực và danh vọng của triều đình vua Lê chúa Trịnh đương thời.

Nhóm Lê Hy có nhiệm vụ khảo đính bộ quốc sử là thành quả của nhóm Phạm Công Trứ trước đó ba thập kỉ, đồng thời biên soạn tiếp lịch sử từ năm Cảnh Trị thứ 1 đời Lê Huyền Tông (1663) đến năm Đức Nguyên thứ 2 đời Lê Gia Tông (1675) gồm 13 năm. Đối với việc khảo đính sử cũ, Lê Hy tự nhận mình chỉ "chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy" (訛者正之純者録之- ngoa giả chính chi, thuần giả lục chi) còn thế thứ, phàm lệ, niên biểu đều theo đúng như sử cũ.[25] Do vậy, nhómLê Hy đã sửa lại nhiều chi tiết sai lệch vềlịch pháp và thiên văn trong bản Cảnh Trị của nhóm Phạm Công Trứ, đồng thời họ cũng cô gọn lời văn và cắt bỏ hoặc bổ sung nhiều sự kiện lịch sử so với bản Cảnh Trị.[26] Còn phần biên soạn mới của nhóm Lê Hy chính là quyển 19 của phầnBản kỷ trong bộĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản, tiếp nối dòng chảy lịch sử trước đó dừng lại ở thời điểm 1662 của nhóm Phạm Công Trứ, được tạo ra dựa trên công tác "tìm kiếm chuyện cũ, tham khảo các sách dã sử loại biên" (蓃獵舊跡參諸野史 - sưu liệp cựu tích tham chư dã sử) và cũng được đặt tên làBản kỷ tục biên.[25]

Bộ quốc sử hoàn thành vào mùa đông năm Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697 và được tiến dâng vua Lê Hy Tông cùng chúaTrịnh Căn vào ngày mồng một tháng một cùng năm (tức là ngày 13 tháng 12 năm 1697), bao quát lịch sử Việt Nam từ thời đại họ Hồng Bàng mở đầu năm 2879 TCN đến hết năm 1675 nhà Lê trung hưng.

Đại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hòa về cơ bản vẫn giữ nguyên cách phân chia và ranh giới giữa các phần như bản Cảnh Trị và vì biên soạn mới thêm một quyển, nên toàn bộ bộ sách cộng là 24 quyển. Tuy phần biên soạn không được bao nhiêu so với các nhóm tác giả trước nhưng nhóm Lê Hy đã kết thúc việc biên soạn quốc sử trải qua nhiều đời sử quan, do đó đã quyết định lần cuối bộ mặt củaĐại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hòa và các bảnĐại Việt sử ký toàn thư tái bản sau này. Ngoài ra, họ cũng là tác giả của bàiTựa sách Đại Việt sử ký tục biên (大越史記續編序 - Đại Việt sử ký tục biên tự) mở đầu bộ quốc sử.

Và cuối cùng, sau hàng thế kỉ ngóng đợi, bộ quốc sửĐại Việt sử ký toàn thư đã được in toàn bộ và ban bố phát hành đầy đủ vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697 đời vua Lê Hy Tông. Mộc bản in sách được khắc ở hai làng Hồng Lục và Liễu Tràng,[25] tuy nhiên sau khi nhà Hậu Lê sụp đổ vào khoảng cuối thế kỷ 18 thì hệ thống ván khắc này đã bị thất lạc. Các bảnĐại Việt sử ký toàn thư hiện hành, gồm bảnNội các quan bản hayQuốc Tử Giám tàng bản, đều có nguồn gốc từ bản in Chính Hòa.

Các ấn bản hiện hành

[sửa |sửa mã nguồn]

Nội các quan bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 1904,Léopold Michel CadièrePaul Pelliot đã giới thiệuĐại Việt sử ký toàn thư bảnQuốc Tử Giám Huế và cho biết gần đó họ đã tìm thấy một bản in sớm hơn với ván in tốt hơn, cách chia quyển giữa các phần có khác hơn nhưng bản in này lại không được đầy đủ.[28]Phan Huy Lê đoán định bản in Quốc Tử Giám Huế có lẽ là bản in đời Nguyễn, còn bản in sớm hơn thì không biết có phải bản Chính Hòa không vì tác giả không chứng minh.[29]

Năm 1934, trong sáchThư mục Việt Nam (Bibliographie annamite) nổi tiếng, nhà thư mục học Việt Nam người Pháp và thành viênViện Viễn Đông Bác cổ,Emile Gaspardone nhân khảo cứu về sáchĐại Việt sử ký toàn thư, cho biết rằng: "Còn có một bản in cổ, rất hiếm, bằng ván in của Nội các (Nội các quan bản) do thợ Liễu Chàng khắc (tử nhân Hồng Lục, Liễu Chàng đẳng xã nhân phụng san). Nó được phân biệt với những bản khắc bởi chữ đẹp và không kiêng húy tên vua triều Nguyễn hay các triều khác".[30] Nhà sử học Phan Huy Lê cho rằng bản in mà Gaspardone đã nói đến chính làĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản.[29]

Khoảng năm 1979, nhà nghiên cứuHán NômTạ Trọng Hiệp tìm thấy trong thư viện riêng của nhà Đông phương học và cũng là thầy giáo của ông,Paul Demiéville, bộ sáchĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản. Cùng dịp đó, nhà sử họcTrần Kinh Hòa đếnParis, nói chuyện với Demiéville và được ông cho mượn bảnNội các quan bản ấy để sao chụp và khảo sát. Kết quả nghiên cứu của Trần Kinh Hòa được công bố trong bài viếtĐại Việt sử ký toàn thư chi soạn tu dữ truyền bản. Ông xác nhận đây là bản inĐại Việt sử ký toàn thư năm Chính Hòa thứ 18 tức là năm 1697 nhưng không chứng minh.[29]

Sau khi Paul Demiéville qua đời vào ngày 23 tháng 3 năm 1979, thư viện riêng của ông, trong đó có bảnNội các quan bản, trở thành tài sản thuộc quyền sở hữu của thư việnHội Á Châu (Société Asiatique), nhưng chưa được đưa ra phục vụ công chúng. Năm 1981, nhà sử học Phan Huy Lê, nhân dịp đi công tác sang Pháp theo lời mời củatrường Đại học Paris VII, đã đề xuất nguyện vọng nghiên cứu bảnNội các quan bản và được Hội Á Châu chấp thuận như một trường hợp đặc biệt.[31] Cùng xem và nghiên cứu với Phan Huy Lê lúc đó, như ông tự thuật, gồm cóHoàng Xuân Hãn, Tạ Trọng Hiệp và một số nhà sử học khác.[31] Khi trở về Việt Nam, Phan Huy Lê mang theo bản sao chụp (photocopy) đen trắng bảnNội các quan bản và báo cáo lênỦy ban Khoa học Xã hội Việt Nam rằng đã phát hiện đã bản in xưa nhất của bộĐại Việt sử ký toàn thư in năm 1697, đề nghị cho tổ chức nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản. Một Hội đồng khoa học đã được Ủy ban cử ra, vớiNguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch và hai ủy viên là Phan Huy Lê vàPhạm Hựu, giám đốc nhà xuất bản Khoa học xã hội lúc đó (sau, Phạm Hựu nghỉ hưu, người thay thế ông ở cương vị này là tân Tổng biên tập nhà xuất bản Khoa học xã hội Nguyễn Đức Diệu). Hội đồng kết luận bộ sáchĐại Việt sử ký toàn thư bản inNội các quan bản này chính là bản in lần đầu tiên của bộ quốc sử vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697).

Đặc điểm văn bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Đại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản hiện lưu trữ ở Paris vốn đóng theo lối bìa phất cậy nhưng sau khi choTrần Kinh Hòa mượn để nghiên cứu,Paul Demiéville đã cho phép ông Trần tháo ra, lót thêm một tờ giấy trắng mỏng vào giữa hai mặt của mỗi tờ để gia cố và bảo quản tốt hơn rồi đóng lại theo lối đục bốn lỗ xuyên dây.[32] Giấy in sách là giấy bản, đã ngả màu, quanh rìa nhất là ở lề bên phải bị mùn nát rách sờn, mất một số chữ.

Bìa sách in to tên sáchĐại Việt sử ký toàn thư, cột chữ bên phải là "Vựng lịch triều chi sự tích" nghĩa là "góp nhặt sự tích của các triều đại đã qua". Cột chữ bên trái là "Công vạn thế chi giám hoành nghĩa" là "nêu gương chung công lao của vạn đời". Khung in là khung một đường chỉ (khung đơn), trên khung có chữ "Nội các quan bản" ở giữa hai hình tròn trang trí rồng mây. Sau này, bìa sách còn được đóng thêm dấu hình bầu dục của Paul Demiéville, dấu hình bầu dục của Hội Á Châu và ký hiệu sách PD 2310 (1).[32]

Toàn bộ sách gồm 1231 tờ với 24 quyển, được đóng lại thành 15 tập, ký hiệu từ PD 2310 (1) đến PD 2310 (15). Mỗi tờ in mộc bản khổ 17,5x27,5 cm, khung in khổ 14x20cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 19 chữ, trừ những tờ đặc biệt nhưBài tựa Đại Việt sử ký tục biên củaLê Hy với mỗi mặt 7 dòng, mỗi dòng 13 chữ. Có 5 tờ bị thiếu, trong đó 3 tờ bị mất (tờ 17 quyển 2 phầnNgoại kỷ, tờ 20 quyển 8 và tờ 32 quyển 16 phầnBản kỷ) và 2 tờ thay thế bằng tờ viết tay (tờ 5 quyển một phầnNgoại kỷ và tờ 47 quyển 12 phầnBản kỷ). Trong số 1226 tờ in hiện còn ở Paris, Trần Kinh Hòa thống kê được 69 tờ nét chữ còn sắc (chiếm tỉ lệ 5,6%), chứng tỏ chúng được in từ những ván khắc bổ sung thay thế cho những ván khắc cũ bị thất lạc hay hư hỏng vàNguyễn Tài Cẩn thống kê sơ bộ có khoảng 250 tờ bị mờ (chiếm tỉ lệ 20%), chứng tỏ chúng được dập vào lúc ván khắc bị mòn. Bộ sách tồn tại hai loại khung in, với 828 tờ khung viền hai đường chỉ (khung kép) và 398 tờ khung viền một đường chỉ (khung đơn), trong số 69 tờ khắc bổ sung cũng có 35 tờ khung kép và 34 tờ khung đơn, phân bố không nhất quán. Chẳng hạn như trong quyển thủ, chỉ có tờ bìa và bàiTựa sách Đại Việt sử ký tục biên mang khung đơn còn lại đều là khung kép (trừ tờ 21 có khung đơn mà theo Trần Kinh Hòa là tờ khắc bổ sung). Các quyển 1 - 4 phầnNgoại kỷ, quyển 1, quyển 3 - 4 phầnBản kỷ chỉ có khung kép, còn các quyển khác có cả hai loại khung in.[32]

Xác định niên đại văn bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Trên cơ sở báo cáo của Phan Huy Lê sau khi sang Pháp trở về năm 1981,Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã thành lập một Hội đồng khoa học với ông Nguyễn Khánh Toàn làm Chủ tịch, ông Phan Huy Lê và Phạm Hựu (sau này làNguyễn Đức Diệu) làm Ủy viên để tổ chức nghiên cứu, giám định niên đại, phiên dịch và xuất bản bộ sách. Năm1983, tập 1 củaĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản được xuất bản bởinhà xuất bản Khoa học xã hội[31] và được công bố rộng rãi với tư cách là bản in lần đầu tiên củaĐại Việt sử ký toàn thư vào năm Chính Hòa thứ 18, tức là năm 1697. Tuy nhiên, do xuất hiện sự phản đối của một số nhà sử học tiêu biểu làLê Trọng KhánhBùi Thiết nhằm phủ nhận niên đại 1697 củaNội các quan bản, ngày 16 tháng 4 năm 1988, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo để giải quyết vấn đề này. Kết luận dựa theo đa số ý kiến trong cuộc hội thảo tuyên bố rằng "Đại Việt sử ký toàn thư-Nội các quan bản (bản Paris) là bản in gần nhất từ hệ thống ván khắc (mộc bản) năm Chính Hòa 18 (1697) mà chúng ta biết đến hiện nay. Có thể nó đã được in trong khoảng thời gian từ sau 1697, khi bộ ván đã khắc xong và trước khi bộ ván khắc này bị thất lạc vào năm 1800, như sử sách đã ghi".[33]

Các cứ liệu văn bản học và sử liệu học để dẫn tới kết luận trên được Phan Huy Lê trình bày trong bài viếtĐại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm,[34] bao gồm:

  • Tờ bìaNội các quan bản: Phan Huy Lê cho rằng, ngoài những yếu tố mới được thêm vào gần đây như con dấu của P. Demiéville, con dấu của thư viện Hội Á Châu, tờ bìa chứa nhiều yếu tố có ý nghĩa phản ánh niên đại như danh hiệuNội các quan bản, hai hình tròn trang trí rồng mây và trong chừng mực nào đó là hai câu đối in vào hai bên bìa sách.[32]
  • Phan Huy Lê cho rằngNội các quan bản nghĩa là ấn bản chính thức của một cơ quan nhà nước mang tênNội các. Ông kiên quyết bác bỏ khả năng đây làNội các triều Nguyễn và đi tìm các cứ liệu tản mát trong nhiều tài liệu lịch sử liên quan để chứng minh đây phải là Nội các triều Lê trung hưng. Một đoạn sử liệu trong sáchĐại Việt sử ký toàn thư ghi lại mệnh lệnh của chúaTrịnh Tạc vào năm Quý Sửu, niên hiệu Dương Đức thứ hai (1673) với nội dung cho văn thần vào Nội các trong phủ chúa để nghị sự. Một thể lệ còn lại ở sáchĐại Việt sử ký tục biên quy định ngày các quan vào hầu ở Nội các trong phủ chúa. Một dụ chỉ của chúaTrịnh Cương năm 1720 quy định y phục của quan văn khi vào hầu Nội các.[32] Tham tụngCao Huy Trạc được trao chức Nội các Đại Học sĩ vào năm 1736[35] và theo Phan Huy Lê, đó là trường hợp một vị quan đứng đầu phủ chúa kiêm chức đứng đầu Nội các. Phan Huy Lê kết luận: dưới thời Lê trung hưng, cơ quan nhà nước mang tên Nội các đã được thành lập và đi vào hoạt động, chậm nhất là từ năm 1673. Đó là cơ quan trực thuộc phủ chúa Trịnh, đứng đầu là Nội các Đại học sĩ cùng với quy định ngày vào hầu chúa và phẩm phục của văn quan khi "nhập các". VàĐại Việt sử ký toàn thư bản inNội các quan bản là bản in chính thức, mang tính chất nhà nước của Nội các trực thuộc phủ chúa Trịnh này. Tuy nhiên, dù khẳng định sự tồn tại của cơ quan nhà nước Nội các dưới triều Lê trung hưng nhưng Phan Huy Lê không tìm thấy được quyết định thành lập cơ quan này cũng như quy chế hoạt động của nó,[32] ngoài vài dòng sử liệu nằm tản mát trong các tài liệu lịch sử.
  • Về kiểu chữ, Phan Huy Lê cho rằng trên tờ bìa có hai chữ đáng lưu ý. Đó là chữViệt 越 hơi đá thảo trong tên sách khác với chữViệt trong sách và chữsự 事 với nét ngang hơi dài trong khi các chữsự khác trong sách đều có nét ngang ngay ngắn. Ông đã giải thích hiện tượng trên bằng cách so sánh, đối chiếu với những kiểu chữ có niên đại Lê trung hưng và kết luận rằng tuy hai chữ ở tờ bìaNội các quan bản có khác với kiểu chữ trong sách và ít dùng ở thời bấy giờ nhưng không trái với niên đại của sách hay mâu thuẫn với niên đại thời Lê trung hưng của văn bản.[32]
  • Về hai hình tròn rồng mây có đường kính 4 cm ở tờ bìa, Phan Huy Lê dẫn ý kiến của nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ ở Viện Mỹ thuật Việt Nam, cho rằng chúng mang đặc trưng của nghệ thuật trang trí thời Lê trung hưng (khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII), khác với nghệ thuật trang trí thời Nguyễn.
  • Về hai câu tán in ở bìa sách, Phan Huy Lê cũng phản bác ý kiến của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh về hai chữlịch triều 厯朝 trong câu đối hay câu tán in ở bìa sáchNội các quan bản, khi họ lý giảilịch triều nghĩa là "triều đại đã qua" và do đó,Nội các quan bản ghi chép lịch sử đến triều Lê trung hưng thì bản in đó phải có niên đại thuộc về triều đại muộn hơn, tức là triều Nguyễn. Ông chỉ ra trong thư tịch Hán Nôm của Việt Nam và Trung Quốc không thiếu những sách mang tênlịch đại haylịch triều mà ghi chép những sự việc xảy ra cho đến triều đại và triều vua đang trị vị, nhưĐại Việt lịch triều đăng khoa lục củaNguyễn Hoãn, Vũ Miên,Phan Lê Phiên;Lịch triều thi sao củaBùi Huy Bích... Hai câu tán đó không phải là tên sách mà chỉ có nội dung biểu thị quan điểm sử học đương thời. Do đó, theo Phan Huy Lê, không ảnh hưởng gì đến niên đại Chính Hoà của bản inNội các quan bản.[32]
  • Dựa theo kết quả giám định của Trần Kinh Hòa về bản inĐại Việt sử ký toàn thư ở Đại học Thiên Lý – một trong bảy bảnĐại Việt sử ký toàn thư hiện hành ởNhật Bản và được ông Trần xác nhận là in từ mộc bản Chính Hoà - Phan Huy Lê nhận xét rằngNội các quan bản tốt hơn và đỡ mờ hơn bản Thiên Lý nên phải được in sớm hơn bản này. Nếu con số 5,6% số tờNội các quan bản được in từ ván khắc bổ sung mà Trần Kinh Hoà đã thống kê là đúng, thì 94,4% số tờ còn lại được in từ bộ mộc bản Chính Hoà ban đầu và như thế, Phan Huy Lê kết luận:Nội các quan bản là bản in đầy đủ nhất thuộc hệ mộc bản này.[32]
  • Đặc điểm không kiêng huý là một căn cứ quan trọng để Phan Huy Lê kết luận về niên đại văn bảnNội các quan bản. Bản này không kiêng huý các vua Lê cũng như các vua Nguyễn. Trong toàn bộ bản in, chỉ duy nhất có một trường hợp kiêng huý, đó là chữtrừ 除 trong câu "niên thâm trừ dụng" 年深除用 ở tờ 48bBản kỷ thực lục quyển 14, kiêng tên Lam Quốc côngLê Trừ, anh trai vuaLê Thái Tổ, tiên tổ vuaLê Anh Tông. Phan Huy Lê lý giải đây là trường hợp ngoại lệ, không ảnh hưởng đến đặc điểm chung của văn bản là không kiêng huý. Phan Huy Lê cho biết không kiêng huý là đặc điểm quan trọng của các văn bản dưới thời Lê trung hưng nênNội các quan bản phải được khắc ở thời kì này chứ không thể ở thời Nguyễn, triều đại thi hành rất chặt chẽ chế độ kị huý trong giai đoạn toàn thịnh của mình. Dưới thời kỳPháp thuộc, chế độ kiêng huý của nhà Nguyễn tuy lỏng lẻo hơn, nhưng triều đình đã cho biên soạn và khắc inKhâm định Việt sử Thông giám cương mục, không có lý do gì cho in lạiĐại Việt sử ký toàn thư nữa.[32]
  • Bố cục và cách chia quyển củaNội các quan bản phù hợp với cách chia của nhóm Phạm Công Trứ được nhóm Lê Hy tiếp thu trongĐại Việt sử ký toàn thư in đời Chính Hoà: phầnBản kỷ toàn thư ghi chép lịch sử từ triều vuaĐinh Tiên Hoàng đến hết triều vuaLê Thái Tổ, phầnBản kỷ thực lục bắt đầu bằng triều vuaLê Thái Tông trong khi các bảnQuốc Tử Giám tàng bản lại có bố cách và cách chia khác.[32]
  • Đối chiếu vớiĐại Việt sử ký toàn thư Nguyễn Văn Huyên bản vàĐại Việt sử ký tiền biên: một số chữ trongNội các quan bản khắc giống trong khiQuốc Tử giám tàng bản khắc sai so với hai bản trên do tự dạng gần giống. Bản Nguyễn Văn Huyên vàĐại Việt sử ký tiền biên có nguồn gốc gần gũi vớiĐại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hoà, nhiều đoạn trongĐại Việt sử ký tiền biên còn bảo lưu gần như nguyên vẹn bản Chính Hoà, do đó, theo Phan Huy Lê, điều này chứng tỏNội các quan bản kế thừa trực tiếp bản Nguyễn Văn Huyên và xuất hiện trướcQuốc Tử giám tàng bản.[32]

Bố cục

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Quyển thủ: gồmBài tựa Đại Việt sử ký tục biên của Lê Hy,Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Phạm Công Trứ,Sách Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư của Ngô Sĩ Liên,Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên,Phàm lệ biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư,Mục lục kỷ biênViệt giám thông khảo tổng luận củaLê Tung.
  • Ngoại kỷ toàn thư: gồm 5 quyển, ghi chép lịch sử từ họ Hồng Bàng năm 2879 TCN đến hết thời kỳ12 sứ quân năm967.
  • Bản kỷ: gồm 19 quyển, chia thànhBản kỷ toàn thư 10 quyển,Bản kỷ thực lục 5 quyển,Bản kỷ tục biên 4 quyển, ghi chép lịch sử từnhà Đinh đến năm1675 đời vuaLê Gia Tông nhà Hậu Lê.
Nội dung chi tiết củaĐại Việt sử ký toàn thư (Nội các quan bản)
Ngoại kỷ
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
1Kỷ họHồng BàngKinh Dương Vương,Lạc Long Quân,Hùng Vương[36]
Kỷnhà ThụcAn Dương Vương257–208 TCN[37]
2Kỷnhà TriệuTriệu Vũ Đế,Triệu Văn Vương,Triệu Minh Vương,Triệu Ai Vương,Triệu Thuật Dương Vương207–111 TCN[38]
3Kỷthuộc Tây Hán111 TCN–40[39]
KỷTrưng Nữ VươngHai Bà Trưng40–43[40]
Kỷthuộc Đông Hán43–186[41]
KỷSĩ VươngSĩ Nhiếp186–226[42]
4Kỷthuộc Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương226–540[43]
KỷTiền LýLý Nam Đế544–548[44]
KỷTriệu Việt VươngTriệu Việt Vương548–571[45]
KỷHậu LýHậu Lý Nam Đế571–602[46]
5Kỷthuộc Tùy Đường602–906[47]
KỷNam Bắc phân tranh906–938[48]
Kỷnhà Ngô12 sứ quânNgô Quyền,Dương Tam Kha,Ngô Xương Văn,Ngô Xương Xí938–968[49]
Bản kỷ
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
1Kỷnhà ĐinhĐinh Tiên Hoàng,Đinh Phế Đế968–980[50]
Kỷnhà Tiền LêLê Đại Hành,Lê Trung Tông,Lê Ngọa Triều980–1009[51]
2Kỷnhà LýLý Thái Tổ,Lý Thái Tông1009–1054[52]
3Kỷ nhà Lý (tiếp theo)Lý Thánh Tông,Lý Nhân Tông,Lý Thần Tông1054–1138[53]
4Kỷ nhà Lý (tiếp theo)Lý Anh Tông,Lý Cao Tông,Lý Huệ Tông,Lý Chiêu Hoàng1138–1225[54]
5Kỷnhà TrầnTrần Thái Tông,Trần Thánh Tông,Trần Nhân Tông1225–1293[55]
6Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Anh Tông,Trần Minh Tông1293–1329[56]
7Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Hiến Tông,Trần Dụ Tông,Trần Nghệ Tông,Trần Duệ Tông1329–1377[57]
8Kỷ nhà Trần (tiếp theo)Trần Phế Đế,Trần Thuận Tông,Trần Thiếu Đế1377–1407[58]
Phụ:Hồ Quý LyHán ThươngHồ Quý Ly,Hồ Hán Thương
9Kỷnhà Hậu TrầnGiản Định Đế,Trùng Quang Đế1407–1413[59]
Kỷthuộc Minh1413–1428[60]
10Kỷnhà Hậu LêLê Thái Tổ1428–1433[61]
Bản kỷ thực lục
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
11Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thái Tông,Lê Nhân Tông1433–1459[62]
12Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thánh Tông (thượng)1459–1472[63]
13Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thánh Tông (hạ)1472–1497[64]
14Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Hiến Tông,Lê Túc Tông,Lê Uy Mục1497–1509[65]
15Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Tương Dực,Lê Chiêu Tông,Lê Cung Hoàng1509–1533[66]
Phụ:họ MạcMạc Đăng Dung,Mạc Đăng Doanh
Bản kỷ tục biên
QuyểnKỷNội dungThời gianGhi chú
16Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Trang Tông,Lê Trung Tông,Lê Anh Tông1533–1573[67]
Phụ: họ MạcMạc Đăng Doanh,Mạc Phúc Hải,Mạc Phúc Nguyên,Mạc Mậu Hợp
17Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Thế Tông1573–1599[68]
Phụ: họ MạcMạc Mậu Hợp
18Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Kính Tông,Lê Chân Tông,Lê Thần Tông1599–1662[69]
19Kỷ nhà Lê (tiếp theo)Lê Huyền Tông,Lê Gia Tông1662–1675[70]

Giá trị

[sửa |sửa mã nguồn]

Việc phát hiện raĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản với tư cách là bản in đầu tiên của bộ quốc sử với niên đại Chính Hoà là một sự kiện lớn của giới sử học Việt Nam trong những năm 80 của thế kỷ 20. Viện sĩNguyễn Khánh Toàn, trong lời giới thiệu nhân lần xuất bản đầu tiên bản dịchNội các quan bản, dứt khoát:

Đối với thời kỳ lừng danh như thờiĐại Việt, nó là cả một bản anh hùng ca, cái gì có liên quan đến nó, dẫu là một câu, một dòng chữ tự tay nhân vật đã sống hoặc đã chứng kiến những giờ phút huy hoàng viết ra, mà ta được đọc hay được nghe, đều là tiếng nói thân thiết từ ngàn xưa vọng lại, làm rung động tâm hồn của chúng ta biết bao.

Cho nên, việc đáng mừng là chúng ta đã tìm lại được bản in xưa nhất của bộ "Đại Việt sử ký toàn thư". Đó là bản in theo ván khắc năm Chính Hoà thứ 18, tức năm 1697, mà trước đây tưởng như không hy vọng tìm thấy. Còn những bản in chúng ta vẫn thường dùng là những bản in sau đó, vào đời Nguyễn.[71]

— Nguyễn Khánh Toàn

Giá trị củaNội các quan bản tiếp tục được Phan Huy Lê khẳng định trong nhiều bài khảo cứu văn bản nàyĐại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm rằng:

Nhưng ngày nay, chúng ta đã có nguyên bản Chính Hoà thì việc nghiên cứu các văn bản sau đó chỉ còn có ý nghĩa làm sáng tỏ lịch sử các truyền bản, khẳng định giá trị văn bản học của bản gốc và xác lập cơ sở khoa học để bổ sung những tờ thiếu của nguyên bản.[72]
— Phan Huy Lê - 1983
Bản Chính Hoà [...] có giá trị đặc biệt về mặt lịch sử và văn bản mà không một bản nào khác có thể thay thế được, khi nghiên cứu và sử dụng bộ "Đại Việt sử ký toàn thư". Vì vậy, việc công bố văn bản Chính Hoà và bản dịch tiếng Việt dựa theo văn bản đó là rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học trên nhiều lĩnh vực.
— Phan Huy Lê - 2009

Bên cạnh đó, cũng có ý kiến của Bùi Thiết và Lê Trọng Khánh phản đối niên đại Chính Hoà củaNội các quan bản, đánh giá nó là "của giả", "vô giá trị",...[73]

Phản biện của Bùi Thiết

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong bài viết: "SáchĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản không phải được khắc in từ năm 1697",[74] tác giả Bùi Thiết cho rằng:

  • Việc khảo tả tác phẩm quá sơ sài, đến mức coi như không có việc làm đó.[75]
  • Đã gọi là Nội các quan bản, thì phải có cơ quan gọi là nội các hoặc tương đương, nhưng không sử sách nào nói rằng triềuHậu Lê tồn tại nội các, đặc biệt là sách Lịch triều hiến chương loại chí củaPhan Huy Chú. Nội các là cơ quan nhà nước phải có ngày tháng hình thành, chức năng, nhiệm vụ, con dấu rõ ràng, điều này ông Phan Huy Lê không chỉ ra được.[76]
  • Phản biện về việc Phan Huy Lê cho rằng đặc điểm không kiêng húy vua chúa Nguyễn, vì vậy nó được in từ năm 1697. Bùi Thiết cho rằng không nên nhấn mạnh đặc điểm này và đặc biệt là sự không trùng hợp giữa pháp lệnh kiêng húy và thực tế xảy ra trong xã hội, nhất là việc in ấn sách vở. Ngay vào thời kiêng húy khắt khe nhất, sự vi phạm cũng không thể tránh khỏi.[77]
  • Phản biện về luận điểm của ông Phan Huy Lê về việc phân chia bố cục bản Nội các quan bản phù hợp trong bài tựa của Phạm Công Trứ. Bùi thiết cho rằng, Phạm Công Trứ viết bài tựa năm 1665, 32 năm sau Lê Hy mới cho in bản Đại việt sử ký toàn thư. Ý kiến này mang tính chất tầm gửi vào Nội các quan bản, một khi không đúng, lý do này vô giá trị.[78]

Cuối cùng tác giả Bùi Thiết cho rằng, kết luận rằngĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản được in năm 1697 là không thể chấp nhận được, cần xem xét lại. Việc làm sai sẽ làm những bản do Việt Nam quản lý, có giá trị đích thực sẽ chịu số phận hẩm hiu, thậm chí bị hủy hoại, còn bản hiện nay do Hội Á châu (Cộng hòa Pháp quản lý) lại được tôn lên vô giá.[79]

Phản biện của Lê Trọng Khánh

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong bài viết "Quan hệ biến chứng về niên đại bộĐại Việt sử ký toàn thư – Bản inNội các quan bản và vấn đề chủ quyền quốc gia về Di sản văn hóa dân tộc", Lê Trọng Khánh cho rằng:[80]

  • Đại Việt sử ký toàn thư thờiLê – Trịnh viết: Lệnh văn quan nhập vương phủ nội các nghị sự, có nghĩa là: Lệnh quan văn vào lầu trong của vương phủ làm việc. Người ta đã dịch sai, thành: Hạ lệnh cho các quan văn vào Nội các của vương phủ để bàn việc. Phan Huy dựa vào chỗ dịch sai này để cho rằng, trước nhà Nguyễn đã có tổ chức "Nội các". Đây là sai lầm kiến thức thông sử và ngôn ngữ.
  • Phan Huy Chú giành 6 quyển trong 49 quyển để trình bày quan chế Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII mà không hề viết thời Lê Trịnh tồn tại nội các.
  • Bản Nội các quan bản do nhà Nguyễn ấn hành chứ không thể là nhà Lê về nguyên tắc sử học lẫn về ván khắc in.

Xuất bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Đại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản được dịch, chú giải và hiệu đính bởi các dịch giảNgô Đức Thọ,Hoàng Văn Lâu,Ngô Thế Long,Hà Văn Tấn dưới sự chỉ đạo của Hội đồng khoa học đứng đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Phan Huy Lê và Nguyễn Đức Diệu, được biên tập bởi Lê Văn Quýnh và Nguyễn Duy Chiếm. Năm 1983, nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản, lần đầu tiên, tập một bản dịchĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản. Tập 2 được tiếp tục ra mắt hai năm sau đó, năm 1985.[31] Do điều kiện ấn loát chưa tốt nên hai tập sách này còn có nhiều sai sót. Do vậy, năm 1993, theo quyết định của Hội đồng chỉ đạo phiên dịch và xuất bảnNội các quan bản, nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bản tập 1, tái bản có sửa chữa tập 2, đồng thời in tiếp tập 3 và tập 4.

Bố cục của công trình xuất bản này bao gồm:

  • Tập 1:Lời Nhà xuất bản Khoa học xã hội,Lời giới thiệu của Nguyễn Khánh Toàn, bài khảo cứuĐại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm của Phan Huy Lê và bản dịch phần đầuĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản gồm Quyển thủ, Ngoại kỷ quyển 1-5, Bản kỷ quyển 1-4, do Ngô Đức Thọ dịch, chú giải, Hà Văn Tấn hiệu đính.
  • Tập 2: gồm phần dịch và chú giải Bản kỷ quyển 5-13 do Hoàng Văn Lâu dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính.
  • Tập 3: gồm phần dịch và chú giải Bản kỷ quyển 14-19 do nhà nghiên cứu Hán Nôm Hoàng Văn Lâu dịch, Giáo sư Hà Văn Tấn hiệu đính và phần Phụ lục với bản dịchĐại Việt sử ký tục biên quyển 20-21 (bản Nguyễn Văn Huyên) của Phạm Công Trứ do Ngô Thế Long thực hiện vàSách dẫn để tra cứu do bộ mônPhương pháp luận sử học thuộc khoa Sử trườngĐại học Tổng hợp Hà Nội thực hiện.
  • Tập 4: bản chụp nguyên vănchữ Hán bản inNội các quan bản bộĐại Việt sử ký toàn thư.

Công trình này được tái bản trọn bộ vào các năm 1998, 2000, 2004, 2009. Nhân dịpĐại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, công ty Đông A phối hợp với nhà xuất bản Khoa học xã hội cho tái bảnNội các quan bản, in thành một tập, khổ lớn 25 cm x3 5 cm, được dịch giả Ngô Đức Thọ chỉnh lý các thông tin mới đối với một số chú thích có các khảo chú về địa danh mà nay các đơn vị hành chính đã có nhiều thay đổi.[81]

Nguyễn Văn Huyên bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong bàiVề bản Đại Việt sử ký toàn thư in ván gỗ mới được tìm thấy của Phạm Công Trứ đăng trênTạp chí Hán Nôm số 1 năm 1988, nhà nghiên cứuNgô Thế Long cho biết rằng trong khi đi tìm các dị bản của bộ sáchĐại Việt sử ký tục biên, ông đã tìm thấy ở tủ sách gia đìnhNguyễn Văn Huyên một cuốn sử in ván gỗ, giấy cũ đã ngả màu và đã bị mủn nát một phần lề dưới, lan vào một số chữ... (gọi tắt là bản Nguyễn Văn Huyên).[26]

Đặc điểm văn bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Bìa sách là bìa phất cậy, ở gáy bìa có ghi tên sách làViệt sử tục biên nhưng cả bìa sách và tên sách mới được làm và viết lại cách đó không lâu. Khổ giấy đã gấp 17x28cm, khung in 14x21cm; mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 9 dòng, mỗi dòng khoảng 18 - 19 chữ; dạng chữ là dạng chữ in đời Hậu Lê, phong cách Liễu Tràng. Ruột sách chia làm hai quyển, ở dòng đầu mỗi quyển đề rằng "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập" và "Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên quyển chi nhị thập nhất" cho biết đây là quyển 20 và 21 của sáchĐại Việt sử ký bản kỷ tục biên. Quyển 20 có 23 tờ, quyển 21 có 26 tờ nhưng tờ số 18 của quyển 21 lại là tờ số 18 của quyển 22 đóng lộn vào.[26] Cộng cả sách là 49 tờ.

Nội dung của quyển 20 là lịch sử triều vuaLê Kính Tông từ năm 1600 đến năm 1619, còn quyển 21 là lịch sử triều vuaLê Thần Tông từ năm 1620 đến năm 1643. So với bộĐại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy thì hai quyển 20 và 21 ở bản Nguyễn Văn Huyên chỉ tương ứng với nửa đầu của quyển 18 phầnĐại Việt sử ký bản kỷ tục biên bản Chính Hòa.[26]

Xác định niên đại văn bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngô Thế Long và các cộng sự đã giám định văn bản này, đi đến kết luận rằng đây là quyển 20 và 21 của bộĐại Việt sử ký toàn thư do nhóm Phạm Công Trứ biên soạn, đã khắc in ra vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665).[26]

Thứ nhất, xét về nội dung, bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ biên soạn trong những năm Cảnh Trị gồm 23 quyển, riêng phần biên soạn mới chép lịch sử Việt Nam từ đờiLê Trang Tông năm 1533 đến hết đời Lê Thần Tông năm 1662 được đặt tên làĐại Việt sử ký bản kỷ tục biên. Trong khi đó, bản Nguyễn Văn Huyên cũng mang tên làĐại Việt sử ký bản kỷ tục biên, đánh số quyển 20, 21. Nội dung ghi chép lịch sử từ đời Lê Kính Tông năm 1600 đến Lê Thần Tông năm 1656 (căn cứ theo tờ 18 quyển 22). Đoạn trước 1600 và sau 1656 thì bị mất. Đoạn sau 1656 bị mất đó, Ngô Thế Long ước chừng vừa một quyển số 23 nữa.[26] Ông nhận xét rằng tên sách, bố cục, nội dung của bản Nguyễn Văn Huyên phù hợp vớiĐại Việt sử ký toàn thư của nhóm Phạm Công Trứ.

Thứ hai, xét về hình thức, Ngô Thế Long thấy bản Nguyễn Văn Huyên có cách ghi năm can chi và niên hiệu giống vớiĐại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy, cùng đề caovua Lêchúa Trịnh, phê phánnhà Mạcchúa Nguyễn.[26] Trong bản Nguyễn Văn Huyên, miếu hiệu các chúa Trịnh được viết đài ngang với miếu hiệu các vua Lê ở ngay đầu quyển 20 và 21. Ngô Thế Long cho rằng điều này chứng tỏ bản Nguyễn Văn Huyên được khắc thời Lê trung hưng chứ không phải ở các triều đại sau đó.[26] Mà triều đình Lê Trịnh chỉ cho khắc in có hai bản sáchĐại Việt sử ký toàn thư: một là bản Cảnh Trị của nhóm Phạm Công Trứ, được khắc in lần đầu tiên năm 1665 nhưng mới in được khoảng già nửa; hai là bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy được khắc in toàn bộ năm 1697 và là nguồn gốc của các bản sáchĐại Việt sử ký toàn thư phổ biến hiện nay.

Tiếp tục so sánh nội dung bản Nguyễn Văn Huyên với sáchĐại Việt sử ký toàn thư của nhóm Lê Hy, Ngô Thế Long phát hiện một số chi tiết về lịch pháp thiên văn, bản của nhóm Lê Hy đúng mà bản Nguyễn Văn Huyên sai, ví dụ bản Nguyễn Văn Huyên chép ngày rằm tháng 5 năm Quý Sửu (1613) cónhật thực, thì bản Chính Hòa chép lànguyệt thực. Do đó, ông cho rằng bản Chính Hòa đã được sửa lại và bản Nguyễn Văn Huyên chưa được sửa. Bản Nguyễn Văn Huyên dung lượng chữ và số sự kiện nhiều hơn bản Chính Hòa của nhóm Lê Hy, chứng tỏ nhóm Lê Hy đã cô gọn lời văn và cắt bỏ sự kiện. Nhóm Lê Hy đã khảo đính lại bộ sử của nhóm Phạm Công Trứ, mà sửa sai, cô gọn lời văn và lược bỏ sự kiện là thao tác thông thường của người chỉnh lý.[26]

Như vậy, bản Nguyễn Văn Huyên phải xuất hiện trước bản Chính Hòa nên chỉ có thể là bản Cảnh Trị. Bản Nguyễn Văn Huyên là một phần của bản sáchĐại Việt sử ký toàn thư cổ nhất đời Cảnh Trị còn được bảo lưu đến ngày nay.[26]

Giá trị

[sửa |sửa mã nguồn]

Tuy chỉ là một phần nhỏ, nhưng bản Nguyễn Văn Huyên đã ghi được nhiều sự kiện và chi tiết lịch sử có giá trị mà nhóm Lê Hy sau đó lược bỏ mất hoặc chép sơ lược hay sai khác hoàn toàn. Đó là những trận đánhTrịnh – Nguyễn phân tranh các năm 1627, 1633, 1634, 1640, 1643; những trận đánh tàn dư nhà Mạc ởCao Bằng các năm 1621, 1638, 1639, 1643; các mệnh lệnh bổ nhiệm, thăng thưởng ghi công quan chức; sự qua đời của vua chúa và quan lại; chế độ thuế khóa, hành chính, lễ nghi, ngoại giao của triều đình đương thời; quan hệ phức tạp giữa các thế lực chính trị ở Việt Nam thời đó; cung cấp nhiều chi tiết mới về một số sự kiện lịch sử như hai cuộc nổi loạn củaTrịnh Xuân, con trai chúaTrịnh Tùng.[26]

Xuất bản

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm 1993, trong lần xuất bản trọn bộĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản 4 tập (bao gồm việc tái bản tập 1 và tập 2, xuất bản tập 3 và tập 4), bản Nguyễn Văn Huyên đã được Ngô Thế Long dịch và in vào phần Phụ lục ở cuối tập 3. Sau đó, bản Nguyễn Văn Huyên còn nhiều lần được tái bản trong những lần tái bản trọn bộ bảnNội các quan bản vào các năm 2000, 2004, 2009, 2010.

Quốc Tử Giám tàng bản

[sửa |sửa mã nguồn]
[icon]
Phần này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cáchphát triển nó.(8 tháng 9 năm 2025)

Đặc điểm hình thức và nội dung

[sửa |sửa mã nguồn]

Hình thức củaĐại Việt sử ký toàn thư được mô phỏng theoTư trị thông giám (資治通鑑) củaTư Mã Quang thời Tống, nghĩa là sự kiện lịch sử được sắp xếp theo trình tự thời gian gọi là thể biên niên. Ngô Sĩ Liên chia tác phẩm ra làm hai phần làNgoại kỷBản kỷ dựa trên thời điểmchiến thắng Bạch Đằng củaNgô Quyền năm 938.[82] Thể biên niên khác vớithể kỷ truyện truyền thống được các bộ chính sử của Trung Quốc sử dụng (phân chia theo tiểu sử của từng nhân vật lịch sử và đượcTư Mã Thiên khởi xướng trong bộSử ký).[83] Trong bản kỷ của mỗi vị vua, Ngô Sĩ Liên luôn bắt đầu bằng lời giới thiệu ngắn gọn cung cấp một cách nhìn tổng quan về vị vua đó trong thời gian trị vì. Khi liệt kê các sự kiện, nhà sử học đôi khi bổ sung thêm một số câu chuyện về các nhân vật lịch sử đã được đề cập đến trong sự kiện đó, có những câu chuyện rất phong phú và chi tiết như vềTrần Quốc TuấnTrần Thủ Độ. Toàn văn một số văn bản chính trị quan trọng cũng được Ngô Sĩ Liên đưa vào nhưHịch tướng sĩBình Ngô đại cáo.[83]

Nội dung cuốn sách chép các sự kiện lớn trong lịch sử nước Việt Nam từ thờiKinh Dương Vương và cácvua Hùng (kỷ họHồng Bàng) cho đến triều đạinhà Hậu Lê với những lời bình chú, nhận xét tương đối khách quan của Ngô Sĩ Liên cũng như của các bậc tiền nhân (Lê Văn Hưu,Phan Phu Tiên). Có rất nhiều sự kiện được các ông đánh giá tương đối đúng bản chất mà sau này vì nhiều lý do (như ảnh hưởng tới những nhân vật lịch sử nổi tiếng hơn, ví dụ như nhận định vềNguyễn Bặc,Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành),Dương Vân Nga trong thời kỳ triều đại của nhà Đinh) nhiều sử gia khác có ý định cắt bỏ. Tuy nhiên cũng có nhiều sự kiện vì lý do quan điểm tư tưởng phong kiến nên các ông đã có những nhận định không xác đáng (như trường hợpthái sưLê Văn Thịnh thời nhà Lý). Cuốn sách lần đầu tiên được hoàn thành năm1479 thờiLê Thánh Tông, sau đó được các sử gia khác chỉnh lý lại và bổ sung (từ các quyển 12 đến quyển 19).

Quan điểm lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

So với Lê Văn Hưu

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêm:Đại Việt sử ký

Trong khiLê Văn Hưu thiết lập điểm khởi đầu cholịch sử Việt Nam là sự thành lậpVương quốc Nam Việt,[84] Ngô Sĩ Liên đi xa hơn nữa khi xác định các nhân vậtKinh Dương VươngLạc Long Quân trong truyền thuyết là tổ tiên của người Việt Nam.[85] Vì thiếu nguồn tư liệu lịch sử vềKinh Dương VươngLạc Long Quân, một số ý kiến cho rằng lời giải thích về nguồn gốc của người Việt Nam củaNgô Sĩ Liên chỉ là một cách để mở rộngniên đại của nền văn minh Việt Nam hơn là việc xác lập điểm khởi đầu của lịch sử Việt Nam.[86][87] Khi bắt đầu biên soạn tác phẩm của mình,Ngô Sĩ Liên đã có quan điểm khác với các học giảthời Trần về họ Hồng Bàng, đó là trong khi các học giả thời Trần chỉ đề cập đến họ Hồng Bàng như một sự tượng trưng tronglịch sử Việt Nam, Ngô Sĩ Liên xác định họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của Việt Nam và trị vì đất nước từ năm 2879 TCN đến năm 258 TCN, nghĩa là có trướcnhà Hạ là triều đại đầu tiên của Trung Quốc hơn 600 năm.[86] Tuy nhiên, tư liệu của Ngô Sĩ Liên về khoảng thời gian dài này là quá ít ỏi[88] nên các nhà sử học hiện đại đặt nghi vấn về tính xác thực về niên đại của cácvua Hùng doNgô Sĩ Liên đặt ra và suy đoán rằngNgô Sĩ Liên xác định niên đại này chủ yếu để phục vụ cho mục tiêu chính trị củanhà Lê nhằm để nâng cao Đại Việt ngang hàng với Trung Hoa.[89]

Cũng nhưLê Văn Hưu,Ngô Sĩ Liên coi Vương quốc Nam Việt là một phần củaViệt Nam, quan điểm này bịNgô Thì Sĩ,[90] một nhà sử học Việt Nam vào thế kỷ 18, cùng các nhà sử học hiện đại phê phán vì các vua Nam Việt đều là người Hán.[91][92][93]

Trong bình luận về sự thất bại củaLý Nam Đế dưới tayTrần Bá Tiên dẫn đến thời kỳBắc thuộc lần 3,Lê Văn Hưu phê phán Lý Nam Đế là kém tài năng trong khi Ngô Sĩ Liên cho rằng ý trời chưa muốn cho Việt Nam độc lập.[94]

Khác

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong khi Lê Văn Hưu dành mối quan tâm hàng đầu là nền tự chủ của đất nước trước Trung Quốc[95] thì Ngô Sĩ Liên, theo ý kiến của nhà sử họcO.W. Wolters, đã xemlịch sử Trung Quốc là tiêu chuẩn đánh giá các sự kiện lịch sử tronglịch sử Việt Nam.[96] Khi bình luận về một sự kiện, nhà sử học thường trích dẫn một đoạn từ cáctác phẩm kinh điển củaNho giáo hoặc các tác phẩm khác của Trung Quốc nhưTống thư để làm hoa mỹ thêm lời bình luận của mình.[97]

Xuất phát từ quan điểm Nho giáo, Ngô Sĩ Liên thường đưa ra các nhận xét tiêu cực về các nhân vật lịch sử có hành vi trái ngược với quan điểm Nho giáo. Ví dụ, mặc dù là một ông vua trị vì thành công, nhưngLê Đại Hành vẫn bị chỉ trích nặng nề trongĐại Việt sử ký toàn thư do việc ông kết hôn vớiDương Vân Nga là thái hậu củatiền triều. Một nhà nghiên cứu suy đoán rằng do có thành kiến với vuaLê Đại Hành nênNgô Sĩ Liên quyết định đem bài thơ nổi tiếngNam quốc sơn hà sang thờiLý Thường Kiệt thay vì đặt ở thờiLê Đại Hành, trong khi một số nguồn cho rằng Lê Đại Hành mới là tác giả củaNam quốc sơn hà.[98][99] Các việc làm của các vị vua mà không theo các quan điểm về đạo đức và chính trị của Nho giáo cũng bị Ngô Sĩ Liên chỉ trích như việcĐinh Tiên Hoàng lập 5 Hoàng hậu,Lê Long Đĩnh lập 4 Hoàng hậu hayLý Thái Tổ thiếu quan tâm đến việc học tậpTứ thư,Ngũ kinh.[100] Đặc biệt trong trường hợp nhà Trần, Ngô Sĩ Liên luôn luôn có những nhận xét phê phán về việc kết hôn giữa các thành viên gần huyết thống trong gia tộc nhà Trần (hôn nhân nội tộc). Khoảng thời gian ngắn duy nhất trong thời Trần mà Ngô Sĩ Liên ca ngợi là từ khiTrần Thái Tông mất năm 1277 đến khiTrần Anh Tông mất năm 1320, trong khi đó ông vẫn lên án hành động của các vua Trần, chẳng hạn như cuộc thanh trừng tàn nhẫn củaTrần Thủ Độ đối với họ Lý hay cuộc hôn nhân gây tranh cãi giữaTrần Thái TôngCông chúa Thuận Thiên.[101]

Bên cạnh giá trị lịch sử,Đại Việt sử ký toàn thư cũng được coi là một tác phẩm quan trọng củavăn học Việt Nam bởi vì Ngô Sĩ Liên thường cung cấp thêm thông tin về nhân vật lịch sử được đề cập bằng những câu chuyện bổ sung được viết giống như một tác phẩm văn học.[83] Từ các lời bình luận của Ngô Sĩ Liên, có vẻ như nhà sử học cũng đã cố gắng xác lập và giảng dạy các nguyên tắc đạo đức dựa trên các khái niệm của Nho giáo.[102] Ví dụ, Ngô Sĩ Liên đã nhiều lần đề cập khái niệm ngườiquân tử, theo đóquân tử phải có cả phẩm chất tốt và cách cư xử công bằng, Ngô Sĩ Liên cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của người quân tử bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa một ngườiquân tử và một kẻtiểu nhân hay xác định kết quả đạt được đối với một ngườiquân tử.[102]

Ảnh hưởng và nhận định

[sửa |sửa mã nguồn]

Ảnh hưởng

[sửa |sửa mã nguồn]

Có thể nói, bộĐại Việt sử ký toàn thư là một cống hiến to lớn của Ngô Sĩ Liên vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Cuốn sử này góp phần vào việc tăng sự hiểu biết lịch sử đất nước Việt Nam qua các thời kỳ đồng thời cũng là một tư liệu quý giá giúp cho công tác bảo tồn, bảo tàng và khảo cổ học.

Về phong hiệu An Nam quốc vương

[sửa |sửa mã nguồn]

Bài chi tiết:Lý Anh Tông#Về phong hiệu An Nam quốc vương

Về thời điểm chính quyền phong kiến Trung Quốc (nhà Tống) chính thức phong quốc hiệuAn Nam quốc (安南國) cho nước ta,Đại Việt sử ký toàn thư ghi là năm1164:

Giáp Thân, [Chính Long Bảo Ứng năm thứ 2] [1164], (Tống Hưng Long[103] năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, nước Chiêm Thành sang cống. Mùa thu, tháng 7, nước to quá mức thường, lúa bị ngập hết. Nhà Tống phong đế[104] làm An Nam Quốc Vương, đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc.[105]

Khi so sánh sự kiện này với các sử liệu Trung Quốc nhưTống sử,Lĩnh Ngoại đại đáp,Thù vực chu tư lục, ... hoặc sử liệu Việt Nam nhưViệt sử lược,Việt sử tiêu án, ... đều cho thấy sự kiện nhà Tống phong quốc hiệu cho nước ta là vào năm1174 (năm Thuần Hy nguyên niên).

Các bộ sử sau này nhưKhâm định Việt sử thông giám cương mục,Việt Nam sử lược, ... do tham khảoĐại Việt sử ký toàn thư nên đều ghi sự kiện này thành năm 1164.

Nhận định

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích và tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Thời gian trong bài, nếu theolịch Gregory đón trướclịch Gregory thì viết bằng số (ví dụ ngày 1 tháng 11), nếu theoâm lịch thì viết bằng chữ (ngày mùng một tháng một).
  2. ^Viện Sử học 1965, tr. 5Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFViện_Sử_học1965 (trợ giúp).
  3. ^Nguyễn Khánh Toàn 1993Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNguyễn_Khánh_Toàn1993 (trợ giúp)
  4. ^Lý Tế Xuyên (1329).Việt điện u linh tập.Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.{{Chú thích sách}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|đồng tác giả= (trợ giúp)
  5. ^Lê Tắc 2009, tr. 256Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFLê_Tắc2009 (trợ giúp)
  6. ^Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 39Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  7. ^Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 163Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  8. ^abcNgô Sĩ Liên 1967, tr. 17-20Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1967 (trợ giúp)
  9. ^Phan Đại Doãn 1998, tr. 122-139Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Đại_Doãn1998 (trợ giúp)
  10. ^Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 264Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  11. ^Ngô Sĩ Liên 1967, tr. 21-25Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1967 (trợ giúp)
  12. ^Taylor 1991, tr. 353–355Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFTaylor1991 (trợ giúp)
  13. ^Phan Đại Doãn 1998, tr. 58-59Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Đại_Doãn1998 (trợ giúp)
  14. ^abLê Quý Đôn 2007, tr. 23Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFLê_Quý_Đôn2007 (trợ giúp)
  15. ^Phan Huy Lê 2009, tr. 33Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Huy_Lê2009 (trợ giúp)
  16. ^abNgô Sĩ Liên 1968, tr. 64Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  17. ^Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 57Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  18. ^Phan Huy Lê 2009, tr. 36Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Huy_Lê2009 (trợ giúp)
  19. ^abGo Zhen Feng 1989, tr. 59-61Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFGo_Zhen_Feng1989 (trợ giúp)
  20. ^abcdeNgô Sĩ Liên 1967, tr. 13-16Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1967 (trợ giúp)
  21. ^Vì tự dạng chữ hợi 亥 gần giống chữ thỉ 豕, tự dạng chữ ngư 魚 gần giống chữ lỗ 魯 nên hay viết nhầm
  22. ^Ngô Sĩ Liên 1968, tr. 127-128Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1968 (trợ giúp)
  23. ^Nguyễn Cảnh thị 2011, tr. 164Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNguyễn_Cảnh_thị2011 (trợ giúp)
  24. ^Trần Nghĩa 1988Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFTrần_Nghĩa1988 (trợ giúp)
  25. ^abcdeNgô Sĩ Liên 1967, tr. 9-12Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1967 (trợ giúp)
  26. ^abcdefghijklNgô Thế Long."Về bản "Đại Việt sử ký toàn thư" in ván gỗ của Phạm Công Trứ, mới tìm thấy".Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2012.
  27. ^Khâm định Việt sử Thông giám cương mục(PDF). 2010. tr. 739. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2012.
  28. ^Léopold Michel Cadière & Paul Pelliot 1904, tr. 18Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFLéopold_Michel_CadièrePaul_Pelliot1904 (trợ giúp)
  29. ^abcPhan Huy Lê 2009, tr. 47-48Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Huy_Lê2009 (trợ giúp)
  30. ^Emile Gaspardone 1934, tr. 64-65Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFEmile_Gaspardone1934 (trợ giúp)
  31. ^abcdPhan Huy Lê 1988, tr. 18-28Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Huy_Lê1988 (trợ giúp)
  32. ^abcdefghijklPhan Huy Lê 2009, tr. 50-70Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhan_Huy_Lê2009 (trợ giúp)
  33. ^Phạm Xuân Nam 1988, tr. 78Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFPhạm_Xuân_Nam1988 (trợ giúp)
  34. ^Phan Huy Lê đã viết và sửa chữa nhiều lần bài viếtĐại Việt sử ký toàn thư: Tác giả - Văn bản - Tác phẩm. Các cứ liệu sau đây đều lấy trong bài khảo cứu in ở đầu sáchĐại Việt sử ký toàn thư bảnNội các quan bản tập 1 tái bản năm 2009
  35. ^Sử gia triều Hậu Lê 2011, tr. 150Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFSử_gia_triều_Hậu_Lê2011 (trợ giúp)
  36. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 3–6Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  37. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 6–9Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  38. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 10–19Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  39. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 20Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  40. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 21Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  41. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 21–24Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  42. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 25–27Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  43. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 28–36Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  44. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 36–38Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  45. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 38–39Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  46. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 39–41Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  47. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 42–51Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  48. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 51–53Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  49. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 53–57Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  50. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 58–65Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  51. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 65–79Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  52. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 80–104Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  53. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 105–134Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  54. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 135–158Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  55. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 159–204Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  56. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 205–239Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  57. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 240–271Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  58. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 272–308Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  59. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 309–322Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  60. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 322–324Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  61. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 325–372Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  62. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 373–428Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  63. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 428–477Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  64. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 478–522Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  65. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 523–552Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  66. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 553–596Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  67. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 597–618Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  68. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 619–655Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  69. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 656–687Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  70. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 688–738Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  71. ^Ngô Sĩ Liên 1983, tr. 7-8Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1983 (trợ giúp)
  72. ^Ngô Sĩ Liên 1983, tr. 54Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1983 (trợ giúp)
  73. ^Khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội 1988, tr. 75-76Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFKhoa_Lịch_sử_Đại_học_Tổng_hợp_Hà_Nội1988 (trợ giúp)
  74. ^Đối thoại sử học, Nhà xuất bản thanh niên Hà Nội, 1999
  75. ^Trang 284, sách Đối thoại sử học
  76. ^Trang 291
  77. ^Trang 299
  78. ^Trang 301
  79. ^Trang 315
  80. ^Đối thoại sử học, Nhà xuất bản thanh niên Hà Nội, 1999, trang 31
  81. ^BáoHà Nội mới.""Đại Việt sử ký toàn thư" đạt giải Vàng Sách đẹp 2011". Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2012.
  82. ^Taylor 1991, tr. 358Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFTaylor1991 (trợ giúp)
  83. ^abcHoàng Văn Lâu (2003)."Lối viết "truyện" trong bộ sử biên niên Đại Việt sử ký toàn thư".Hán Nôm Magazine. Số 99.Hà Nội: Institute of Hán Nôm.Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  84. ^Đại Việt sử ký tạiTừ điển bách khoa Việt Nam
  85. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 3–4Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  86. ^abPelley 2002, tr. 151
  87. ^Pelley 2002, tr. 65
  88. ^Ngô Sĩ Liên 1993, tr. 4–6Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFNgô_Sĩ_Liên1993 (trợ giúp)
  89. ^Pelley 2002, tr. 151–152
  90. ^Ngô Thì Sĩ (1991).Việt sử tiêu án. History & Literature Publishing House. tr. 8.
  91. ^Nam Việt tạiTừ điển bách khoa Việt Nam
  92. ^Triệu Đà tạiTừ điển bách khoa Việt Nam
  93. ^Phan Huy Lê, Dương Thị The, Nguyễn Thị Thoa (2001)."Vài nét về bộ sử của Vương triều Tây Sơn".Hán Nôm Magazine. Số 85.Hà Nội: Institute of Hán Nôm.Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  94. ^Taylor 1991, tr. 144Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFTaylor1991 (trợ giúp)
  95. ^Womack, Brantly (2006).China and Vietnam: the politics of asymmetry. Cambridge University Press. tr. 119.ISBN 0-521-61834-7.
  96. ^Anthony Reid, Kristine Alilunas-Rodgers 2001, tr. 94Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFAnthony_Reid,_Kristine_Alilunas-Rodgers2001 (trợ giúp)
  97. ^Anthony Reid, Kristine Alilunas-Rodgers 2001, tr. 95Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFAnthony_Reid,_Kristine_Alilunas-Rodgers2001 (trợ giúp)
  98. ^Bùi Duy Tân (2005)."Nam quốc sơn hà và Quốc tộ - Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn".Hán Nôm Magazine. Số 05.Hà Nội: Institute of Hán Nôm.Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  99. ^Nguyễn Thị Oanh (2001)."Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà".Hán Nôm Magazine. Số 02.Hà Nội: Institute of Hán Nôm.Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2014.
  100. ^Phạm Văn Khoái, Tạ Doãn Quyết (2001)."Hán văn Lý-Trần và Hán văn thời Nguyễn trong cái nhìn vận động của cấu trúc văn hóa Việt Nam thời trung đại".Hán Nôm Magazine. Số 03.Hà Nội: Viện Hán Nôm.[liên kết hỏng]
  101. ^Anthony Reid, Kristine Alilunas-Rodgers 2001, tr. 94–98Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFAnthony_Reid,_Kristine_Alilunas-Rodgers2001 (trợ giúp)
  102. ^abAnthony Reid, Kristine Alilunas-Rodgers 2001, tr. 99–100Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFAnthony_Reid,_Kristine_Alilunas-Rodgers2001 (trợ giúp)
  103. ^Thực tế, niên hiệu của vua Tống là Long Hưng (隆興:1163 -1164).
  104. ^Nguyên văn đế (帝), hay bị dịch thành vua. Tuy nhiên, nên giữ lại chữ đế để thể hiện rõ quan điểm của tác phẩm gốc về việc xưng đế của các vua nước ta.
  105. ^大越史記全書/本紀卷之四 – Wikisource 甲申二年〈宋興隆二年〉春三月,占城來貢。秋七月,大水過常,禾榖渰沒。宋封帝爲安南國王,改交趾爲安南國。

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikisource có văn bản gốc liên quan đến bài viết:

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềĐại Việt sử ký toàn thư.
Quốc sử Việt Nam

Bài viết tốt"Đại Việt sử ký toàn thư" là mộtbài viết tốt của Wikipedia tiếng Việt.
Mời bạn xemphiên bản đã được bình chọn vào ngày 4 tháng 5 năm 2013 và so sánhsự khác biệt với phiên bản hiện tại.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đại_Việt_sử_ký_toàn_thư&oldid=74426669
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp