106.460.000 km2 (41.100.000 dặm vuông Anh)[2] Bắc Đại Tây Dương: 41.490.000 km2 (16.020.000 dặm vuông Anh), Nam Đại Tây Dương: 40.270.000 km2 (15.550.000 dặm vuông Anh)[3]
Các địa hình cơ bản của đại dương này làsống núi giữa đại dương có tên làsống núi giữa Đại Tây Dương.[5] Nó kéo dài từIceland ở phía bắc đến khoảng 58° Nam, vớichiều rộng tối đa khoảng 860 hải lý (1.590 km; 990 mi). Mộtthung lũng tách giãn cũng kéo dài dọc theo sống núi vớichiều dài gần bằng sống núi. Độ sâu của vùng nước ở đỉnh núi là nhỏ hơn 2.700 mét (1.500 sải; 8.900 ft) ở nhiều nơi, trong khi chân sóng núi thì sâu gấp 3 lần. Một số đỉnh núi nhô cao khỏi mặt nước tạo thành các đảo.[6] Đại Tây Dương có một sống núi ngầm khác làsống núi Walvis.[7]
Sống núi giữa Đại Tây Dương chia Đại Tây Dương thành hai rãnh lớn với độ sâu từ 3.700–5.500 mét (2.000–3.000 sải; 12.100–18.000 ft). Các sống nằm ngang theo hướng giữa các lục địa và sống núi giữa Đại Tây Dương chia đáy đại dương thành một số bồn đại dương. Một số bồn lớn hơn làBlake, Guiana, Bắc Mỹ, Cabo Verde, và Canaries ở Bắc Đại Tây Dương. Các bồn lớn nhất ở Nam Đại Tây Dương là Angola, Cape, Argentina, và Brazil.
Các trầm tích lục địa, như cát, bùn, và các hạt đá được tạo ra bởi quá trìnhxói mòn,phong hóa và hoạt động núi lửa trên đấn liền và được đẩy ra biển. Các vật liệu này được tìm thấy chủ yếu trên cácthềm lục địa và có bề dày lớn nhất ở gần cửa sông và các bờ biển.
Các trầm tíchbiển sâu chứa các vật liệu còn sót lại của các sinh vật lắng đọng xuống đáy biển nhưsét đỏ vàGlobigerinida,pteropod, và bùn silic. Phủ hầu hết đáy đại dương và có bề dày thay đổi từ 60–3.300 mét (33–1.804 sải; 200–10.830 ft) các trầm tích này dày ở các đai hội tụ, nổi bật làsống núi Hamilton và các đới nước dâng.
Các trầm tíchAuthigenic bao gồm các vật liêu nhưkết hạch namgan. Chúng xuất hiện ở những nơi mà quá trình lắng đọng trầm tích rất chậm hoặc nơi các dòng chảy chọn lọc các vật liệu trầm tích như trongHewett Curve.
Đường đi củadòng hoàn lưu muối nhiệt. Các đường màu tím là các dòng hải lưu dưới sâu, còn các đường màu xanh là các dòng hải lưu trên mặt.Bản đồ 5 dòng hoàn lưu đại dương chính
Tính trung bình, Đại Tây Dương có độ mặn lớn nhất trong 5 đại dương; độ mặn nước trên mặt trong các đại dương mở nằm trong dải từ 33 đến 37‰ và thay đổi theo mùa và vĩ độ. Độ bốc hơi, giáng thủy, dòng chảy ra từ sông, và băng tan trong biển ảnh hưởng đến độ mặn. Mặc dù các giá trị độ mặn thấp nhất chỉ ở gần phía bắc củaxích đạo (do lượng mưa cao ở vùng nhiệt đới), nhìn chung các giá trị thấp nhất cũng xuất hiện ở các vĩ độ cao và dọc theo các bờ biển có các con sông lớn đổ ra. Độ măn cao nhất gặp ở khoảng 25° vĩ Bắc và Nam, ở các khu vựccận nhiệt đới vời lượng mưa thấp và bốc hơi cao.
Nhiệt độ bề mặt thay đổi theo vĩ độ, hệ thống dòng hải lưu và mùa và phản ảnh sự phân bố năng lượng mặt trời theo vĩ độ, thay đổi dưới −2 °C (28 °F). Nhiệt độ cao nhất gặp ở phía bắc xích đạo và thấp nhất ở gần các vùng cực. Ở các vĩ độ trung bình, khu vực có nhiệt độ cao nhất dao động trong khoảng 7–8 °C (44.6–46.4 °F).
Ô nhiễm biển là một thuật ngữ được dùng để chỉ các chất thải vào đại dương gồm các hóa chất và các chất dạng hạt. Nguồn gây ô nhiễm lớn nhất là từ các con sông, chúng mang các chất từ phân bón của hoạt động nông nghiệp cũng như các chất thải từ con người. Sự vượt ngưỡng của các chất hóa học làm giảm lượng oxy dẫn đến tìn trạng thiếu oxy và tạo ra và vùng sinh thái chết.[9]