Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Đường Duệ Tông

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đường Duệ Tông
唐睿宗
Hoàng đếTrung Hoa
Hoàng đếĐại Đường
Tại vị27 tháng 2 năm684 -19 tháng 10 năm690
(6 năm, 234 ngày)
Nhiếp chính
Tiền nhiệm
Kế nhiệm
Hoàng đếĐại Đường
Tại vị25 tháng 7 năm710 -8 tháng 9 năm712
(2 năm, 45 ngày)[1]
Tiền nhiệm
Kế nhiệm
Thái thượng hoàngĐại Đường
Tại vị8 tháng 9 năm712 -13 tháng 7 năm716
3 năm, 309 ngày
Tiền nhiệmVõ Tắc Thiên
Kế nhiệmĐường Huyền Tông
Thông tin chung
Sinh22 tháng 6,662
Hàm Lương điện,Bồng Lai cung,Trường An
Mất13 tháng 7, 716(716-07-13) (54 tuổi)
Bách Phúc điện,Trường An
Thê thiếpTúc Minh Thuận Thánh hoàng hậu
Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu
Hậu duệxem văn bản
Tên thật
Lý Đán (李旦)
Lý Húc Luân (李旭轮)
Lý Luân (李轮)
Võ Đán (武旦)
Niên hiệu
  • Văn Minh (文明;2/684-8/684)[2]
  • Cảnh Vân (景云;7/710-1/712)
  • Thái Cực (太极;1/712-4/712)
  • Diên Hòa (延和;5/712-8/712)
Thụy hiệu

(大聖真皇帝)[3]

(玄真大圣皇帝)
[5]
(玄真大聖大興孝皇帝)
Miếu hiệu
Duệ Tông (睿宗)
Hoàng tộcNhà Đường (唐)
Thân phụĐường Cao Tông
Thân mẫuVõ Tắc Thiên

Đường Duệ Tông (chữ Hán: 唐睿宗,22 tháng 6,662 -13 tháng 7,716), húyLý Đán (李旦), là vịHoàng đế thứ năm và thứ bảy củanhà Đường tronglịch sử Trung Quốc, ở ngôi hai lần vào các thời điểm27 tháng 2 năm684 -8 tháng 10 năm690, và25 tháng 7 năm710 -8 tháng 9 năm712.

Với thân phận là con trai thứ 8 củaĐường Cao Tông Lý Trị, hoàng đế thứ ba củanhà Đường và cũng là con trai út củaVõ Tắc Thiên, Lý Đán từng được phong nhiều chức vị cao trong triều dưới thời Cao Tông. Năm684, ông được mẹ là Võ hậu đưa lên ngai vàng sau khi anh traiĐường Trung Tông Lý Hiển bị phế, nhưng trong suốt 6 năm tại vị, toàn bộ quyền lực trong triều đều nắm trong tay Võ hậu. Năm690, ông bị ép buộc nhường ngôi vua cho Võ hậu, làm gián đoạnnhà Đường trong 15 năm. Lý Đán bị giáng làmHoàng tự.

Năm697, khi Lý Hiển được Võ hậu đón về từPhòng châu, Lý Đán nhường ngôi Thái tử cho anh, còn mình xuống làm một Thân vương. Sau khinhà Đường khôi phục (705), ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại thứ hai củaĐường Trung Tông. Sau khi Trung Tông bị giết (710), dưới sự thúc giục của em gái làThái Bình công chúa cùng con trai Lâm Tri vươngLý Long Cơ, Lý Đán phế truất Thương Đế, đăng quang lần thứ hai. Sang năm712, ông nhường ngôi cho Lý Long Cơ, tự xưng làThái thượng hoàng.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

[sửa |sửa mã nguồn]

Đường Duệ Tông sinh thời từng có nhiều tên gọi, bao gồm tên khai sinhLý Húc Luân (李旭轮), rồiLý Luân (李轮),Lý Đán (李旦) vàVõ Đán (武旦). Ông là con trai thứ tám củaĐường Cao Tông Lý Trị và con trai thứ 4 củaVõ Tắc Thiên. Ông chào đời vào ngày22 tháng 6 năm662, tức ngày 1 tháng 6 ÂL năm Long Sóc thứ 2 ở kinh đôTrường An, tạiHàm Lương điện (含涼殿) củaBồng Lai cung (蓬萊宮). Ngay cuối năm đó, khi chưa tròn 6 tháng tuổi, ông đã được Cao Tông phong cho tước vịÂn vương (殷王), chứcDiêu lĩnhKý Châu[6]Đại đô đốc,Thiền vu Đại đô hộ, kiêmHữu kim ngô vệ đại tướng quân; mặc dù các chức vụ này chỉ mang ý nghĩa tượng trưng.

Khi trưởng thành, Lý Húc Luân tỏ ra là người cung kính hiếu thuận và chăm chỉ, thích đọc nhiều sách vở cổ và có tài viết thư pháp. Năm666, Lý Húc Luân được cải phong làmDự vương (豫王). Năm669, Lý Húc Luân lại được đổi làmKý vương (冀王) và cùng lúc đó, Cao Tông cũng quyết định bỏ chức Húc trong tên húy của ông, do đó tên của ông làLý Luân (李轮).

Năm675,Đường Cao Tông một lần nữa đổi phong Lý Luân làmTương vương (相王), bái làmHữu vệ đại tướng quân (右卫大将军). Năm676, khi quânThổ Phiên tiến công vào biên giới nhà Đường, Cao Tông phong cho Lý Luân cùng anh làLý Hiển làm tướng chỉ huy quân đội chống Thổ Phiên, nhưng thực tế quyền cầm quân nằm trong tay hai tướngLưu Thẩm LễKhế Bật Hà Lực. Sang năm678, ông được đổi tên làLý Đán.[7] Và năm sau (679), Vương phi Lưu thị sinh hạ con trai đầu lòng của ông làLý Thành Khí.

Ở ngôi lần thứ nhất

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngay từ thờiĐường Cao Tông,Võ hoàng hậu đã bắt đầu can thiệp triều chính vào năm 660.Lý Hiển được phong làm thái tử năm 681 sau khi anh cả làLý Hoằng qua đời vì bệnh lao và anh thứLý Hiền bị truất vì mưu phản. Ngày27 tháng 12 năm683,Đường Cao Tông mất ở Lạc Dương.[8] Lý Hiển kế ngôi, tứcĐường Trung Tông. Lợi dụng Trung Tông bận việc để tang, Võ hoàng hậu được tônHoàng thái hậu,lâm triều xưng chế.[9][10] Ngày26 tháng 2 năm683, lấy cớ Trung Tông phong cho cha vợVi Huyền Trinh nắm quyền trong triều, Võ Thái hậu dẫn quân củaTrình Vụ ĐĩnhTrương Kiền Úc vào triều phếĐường Trung Tông làm Lư Lăng vương, đày sang Quân châu.[11] Hôm sau,27 tháng 2, Thái hậu hạ chiếu lập Tương vươngLý Đán làm Tân đế, sửĐường Duệ Tông, cải nguyên là Văn Minh.

Tuy nhiên mọi việc trong triều đều doVõ Thái hậu quyết đoán, Duệ Tông không có thực quyền. Võ Thái hậu ngay lập tức hạ lệnh đổi tên một loạt cung điện ở kinh thành và một số châu quận theo ý thích của mình, lại cho xây đền miếu thờ tổ tiên họ Võ trong kinh thành.Võ Thái hậu lâm triều phong thưởng công thần, con traiTrình Vụ ĐĩnhTrình Tề Chi được làm Thượng thừa phụng ngữ.Trình Vụ Đĩnh ứa nước mắt xin nhường cho em trai là Nguyên Châu tư mãTrình Vụ Trung, Võ Thái hậu khen ngợi, gia phongTrình Vụ Trung làm Thái tử tẩy mã.

Đầu năm684,Võ Thái hậu lấyTrình Vụ Đĩnh làm Tả vũ vệ đại tướng quân, Thiền Vu đạo An phủ đại sứ, đốc quân đề phòngHãn quốc Hậu Đột Quyết (đời Hiệt Điệt Lợi Thi Khả hãnA Sử Na Cốt Đốc Lộc) xâm phạm.Trình Vụ Đĩnh khéo vỗ về, chế ngự, có uy có đức, bộ tướng không ai không tận lực; người Đột Quyết rất kiêng dè, không dám xâm phạm nhà Đường.

Mùa thu năm684, Anh quốc côngTừ Kính Nghiệp (cháu nộiLý Tích) khởi loạn chống lạiVõ Thái hậu, lấy danh nghĩa khôi phục hoàng vị choĐường Trung Tông. Tuy nhiên cuộc khởi nghĩa không kéo dài, Võ Thái hậu saiLý Tri ThậpMã Kính Thần dẹp loạn, giết đượcTừ Kính Nghiệp.[12] Đáp lại, Võ Thái hậu đã cho phá hủy lăng mộ củaLý Tích, tước bỏ các chức tước màĐường Cao Tông đã tặng sau khiLý Tích qua đời, đồ sát gần như toàn bộ các hậu duệ củaLý Tích.

Cuối năm684, do nghi ngờ tể tướngBùi Viêm muốn chống lại mình, Võ Thái hậu sai chém đầu Bùi Viêm và giáng chức hoặc bắt giam tất cả những người cầu xin cho ông ta.[13] Trong đó cóTrình Vụ Đĩnh cũng bị Võ Thái hậu xử tử. NgườiHãn quốc Hậu Đột Quyết nghe tinTrình Vụ Đĩnh chết, bày tiệc ăn mừng, rồi lập đền thờ, trước khi ra trận đều cúng viếng. Sang ngày Đinh Mão tháng 9 ÂL năm684,Võ Thái hậu lại tiếp tục bình diệt được cuộc khởi nghĩa củaVương Quả Thảo ở Quảng châu. Trong thời gian đó, thái hậu bắt đầu tìm kiếm nhân tình và làm nhiều việc dâm loạn trong cungnhà Đường.

Năm685Võ Thái hậu gọi An Đông đô hộ làQu TuquanAn Đông đô hộ phủ tạiLiêu Đông vềTrường An, rồi thái hậu phong cho con trai củaTiết Nhân QuýTiết Nột (dân gian gọi làTiết Đinh San) làm U Châu đô đốc kiêm An Đông đô hộ.

Tết nguyên đán năm686, Võ Thái hậu hạ chiếu giao lại chính quyền do Duệ Tông, nhưng Duệ Tông biết bà ta không thực tâm, nên không dám chấp nhận. Thái hậu tiếp tục lâm triều xưng chế. Cùng năm đó, Thái hậu sai chế ra một cái hộp bằng đồng đặt trước triều đường, để cho những người hiến kế hay hoặc dự báo được tinh tượng, hoặc muốn tố cáo gian ác, hoặc muốn tiến cử nhân tài... mà ngại không dám nói thì cho bỏ thư vào đó.

Thái hậu từ việcTừ Kính Nghiệp tạo phản, nghi ngờ các lão thần không phục mình, bèn muốn giết một số người để ra oai. Bà ta phái mật thám theo dõi các quan lại trong triều, rồi bảo nếu ai thấy có quan lại nào có ý chống lại thái hậu thì hãy cáo mật. Bà thường không hỏi nguyên do và thực giả, cho bãi chức hoặc giết chết đại thần đó. Người người vì việc cáo mật này cũng được thăng chức cao.

Năm687, ởAn Nam đô hộ phủ, do chính sách thuế hà khắc của An Đông đô hộLưu Diên Hựu, người bản địa làLý Tự Tiên mưu sự chống lại.Đinh Kiến cùng tham gia dưới quyềnLý Tự Tiên. Mưu sự nổi dậy chưa phát thì bịLưu Diên Hựu biết được. Lưu Diên Hựu mang quân giếtLý Tự Tiên.Đinh Kiến liền đứng lên kế tục Lý Tự Tiên lãnh đạo quân khởi nghĩa chống lại nhà Đường ở An Nam đô hộ phủ.

Đinh Kiến cùng một thủ lĩnh khác làTư Thận họp quân tiến công, bao vây nhiệm sở của An Nam đô hộ phủ là thànhTống Bình.[14] Quân củaLưu Diên Hựu bị cắt làm hai, một nửa ở ngoài và một nửa cố thủ trong thành, không liên lạc được với nhau.Lưu Diên Hựu vì trong thành còn ít quân, liệu thế không chống cự được, phải cố thủ và sai người đi cầu cứu tướng trấn giữQuảng Châu của nhà Đường làPhùng Tử Du. Phùng Tử Du tuy nhận lời, nhưng vốn có sự ganh ghét với Lưu Diên Hựu trên quan trường nên mặc kệ không cứu, muốn mượn tay Đinh Kiến giết Lưu Diên Hựu.Đinh Kiến tấn công mạnh mẽ vào thành Tống Bình, cuối cùng phá được thành và giết chết Lưu Diên Hựu. Quân khởi nghĩa làm chủ được phủ thànhTống Bình.An Nam đô hộ phủ bị chấn động.

Nghe tin thành Tống Bình thất thủ, Võ Thái hậu nổi giận, liền phái Tư mã Quế châu làTào Huyền Tĩnh mang quân nam chinh. Biết chính quyền củaĐinh Kiến mới lập ở thành Tống Bình đều là quân lính mới họp và chưa có kinh nghiệm trận mạc,Tào Huyền Tĩnh tổ chức tấn công lớn vào quân khởi nghĩa ở thành Tống Bình.Đinh Kiến không đủ sức chống cự. Cuối cùng, thành Tống Bình thất thủ trước quân Đường,Đinh Kiến bị quân Đường giết chết. Nhà Đường ổn định lại An Nam đô hộ phủ, tái lập sự cai trị ởViệt Nam.

Cùng năm687, Võ Thái hậu nhân danh Đường Duệ Tông phong vương cho các hoàng tử con ông:Lý Thành Khí làm Hằng vương,Lý Long Cơ làm Sở vương,Lý Long Phạm làm Vệ vương,Lý Long Nghiệp làm Triệu vương.

Trong năm687 quânĐột Quyết do Hiệt Điệt Lợi Thi Khả hãnA Sử Na Cốt Đốc Lộc và tướng của ông ta làA Sử Đức Nguyên Trân (阿史德元珍) chỉ huy xâm phạm biên giới phía bắc nhà Đường (đời vua Đường Duệ Tông).Võ Thái hậu ủy quyền cho tướngBách Tế cũ làHắc Xỉ Thường Chi (Heukchi Sangji), được hỗ trợ bởi thủ lĩnhLý Đa Tộ (李多祚) của bộ lạcPhất Niết Mạt Hạt (bộ lạc ở đông bắcAn Đông đô hộ phủ đã quy phụcnhà Đường từ lâu), dẫn quân Đường lên phía bắc chống lại cuộc tấn công củaA Sử Na Cốt Đốc Lộc.Hắc Xỉ Thường ChiLý Đa Tộ đã đánh bại quânĐột Quyết tại Hoàng Hoa Đồi (黃花堆, nay thuộc Sóc Châu, Sơn Tây), khiến quânĐột Quyết củaA Sử Na Cốt Đốc LộcA Sử Đức Nguyên Trân phải tháo chạy về bắc.

Cũng trong năm687 đó, đại thầnLưu Y Chi dù có lời khen Võ Thái hậu nhưng lại bị bà ta ghét bỏ, sau đó Võ Thái hậu lại phát hiệnLưu Y Chi muốn Duệ Tông nắm quyền, bèn giam vào ngục. Duệ Tông dù không tham gia chính sự nhưng vẫn hạ lệnh xá miễn, nhưngLưu Y Chi biết rằng hành động của Duệ Tông càng làm ông ta chết nhanh hơn. Quả nhiên sau đó Võ Thái hậu bắtLưu Y Chi tự vẫn.

Võ Thái hậu không dừng lại ở việc xưng chế mà còn muốn làm nữ đế. Mùa thu năm688, các hoàng thân gồm Việt vươngLý Trinh cùng con là Lang Nha vươngLý Xung khởi binh, ban hịch nói Duệ Tông bịVõ Thái hậu vây bức trong cung cấm, nên nay khởi binh Cần vương. Võ Thái hậu saiKhúc Sùng Dụ,Sầm Trường Sai thảo phạt, đánh bại Việt vươngLý Trinh. Việt vươngLý Trinh tự sát. Võ Thái hậu sai đổi họ của Lý Trinh thành Hủy, gọi làHủy Trinh.[15][16] Sau vụ này, Võ Thái hậu cho tàn sát nhiều tôn tộc Lý thị như Hàn vươngLý Nguyên Quỹ, Lỗ vươngLý Linh Quỳ, Thường Lạc công chúa..., rồi cũng đổi tất cả họ sang họ Hủy, gọi làHủy Nguyên Quỹ,Hủy Linh Quỳ,...

TướngBách Tế cũ làHắc Xỉ Thường Chi (Heukchi Sangji, 黑齒常之) và người bảo trợ của ông ta là Triệu tướng quân cảm thấy không đượcVõ Thái hậu sủng ái nữa. Cả hai người họ đều bị Võ Thái hậu kết án tù khi họ bị Võ Thái hậu vu oan là mưu phản. Cuối cùng,Hắc Xỉ Thường Chi bị xiềng xích và bịVõ Thái hậu kết án tử hình cùng Triệu tướng quân vào năm689 (năm1929, ngôi mộ củaHắc Xỉ Thường Chi được phát hiện và được khai quật ởLạc Dương,Trung Quốc).

Cùng năm689,A Sử Na Mặc Xuyết (em trai của Hiệt Điệt Lợi Thi Khả hãnA Sử Na Cốt Đốc Lộc) chỉ huy quânĐột Quyết đột kích vào vùng biên giớinhà Đường. Để phản ứng lại,Võ Thái hậu đã cử nhân tình của mình làTiết Hoài Nghĩa đến củng cố biên giới.Tiết Hoài Nghĩa tiến đến Tử Hà (紫河, một nhánh củaHoàng Hà) nhưng không chạm trán với lực lượng Đột Quyết.A Sử Na Mặc Xuyết đã dựng tượng đài tại Thiền Vu đài (單于臺, ở Hohhot,Nội Mông,Trung Quốc hiện đại) trước khi rút lui vềHãn quốc Hậu Đột Quyết.

Năm690, nhiều phe cánh của Thái hậu trong triều dâng sớ khuyên bà ta xưng đế. Duệ Tông biết thế cục bất lợi, cũng đành xin Thái hậu lên ngôi. Thái hậu bằng lòng. Ngày8 tháng 10 năm690, Duệ tông thoái vị, Võ thái hậu đăng cơ, đổi quốc hiệu thành Đại Chu. Nhà Đường bị gián đoạn. Duệ Tông bị thái hậu giáng làm người kế vị, nhưng được gọi là Hoàng tự thay vì thái tử.[17]

Thời Võ Tắc Thiên

[sửa |sửa mã nguồn]

Võ Thái hậu mặc dù lập Lý Luân làm hoàng tự, song các thân vương họ như Ngụy vươngVõ Thừa Tự, Lương vươngVõ Tam Tư đều nhắm đến vị trí thái tử, nhiều lần nói rằng không có hoàng đế nào lại truyền ngôi cho người họ khác. Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, Thái hậu vẫn chưa thay đổi vị trí kế vị.

Năm693, người tì nữ được thái hậu tin tưởng,Vi Đoàn Nhi, vu cáo vợ Lý Luân là Lưu thị cùng người thiếp của ông, Đậu thị lập đàn bùa phép mưu hại Võ Thái hậu. Do đó Thái hậu cho xử tử cả Lưu thị và Đậu thị.[18] Lý Luân cực kì lo sợ mình sẽ bị liên lụy, do đó ông không dám khóc thương cho hai người, sinh hoạt vẫn tiến hành như bình thường. Tuy nhiên sau đó Đoàn Nhi lại tiếp tục tìm cớ hãm hại Lý Luân, nhưng Thái hậu không tin bà ta nữa, sai giết đi. Cũng trong lúc đó, mẹ của Đậu Đức phi là Bàng thị bị người đến tố cáo, Bàng thị bị khép tội chết, cho giảm một bậc. Cũng trong năm đó, lại có lời tố cáo Lý Luân mưu phản. Võ Thái hậu tức giận, sai giam lỏng ông trong phủ, không cho đại thần gặp mặt, đồng thời phế các con ông từ thân vương làm quận vương. Những người bị nghi đồng mưu đều bịLai Tuấn Thần tra tấn dã man. Bấy giờ có An Kim Tàng tự mổ bụng của mình để giải oan cho Lý Luân. Thái hậu nghe tin cảm động, cho cứu chữa tận tình cho Kim Tàng và xá miễn cho Lý Luân.

Năm698, do lời khuyên của đại thầnĐịch Nhân Kiệt cùng các nam sủng là anh emTrương Dịch Chi,Trương Xương Tông, Võ Thái hậu quyết định đón Lư Lăng vươngLý Hiển về kinh. Tháng 10 cùng năm, Lý Đán xin nhường ngôi kế vị cho Lý Hiển. Võ thái hậu bằng lòng, lập Lý Hiển làm Thái tử.[7] Sang năm699, Lý Đán được đổi phong làm Tương vương, kiêm chức Thái tử hữu vệ suất. Cũng năm ấy, Thái hậu đổi họ của Lý Hiển và Lý Luân thành Võ, đổi tên Võ Luân thành Võ Đán. Do lo sợ sau khi mình chết đi thì hai họ Lý - Võ sẽ không dung nhau, Thái hậu bèn ép Võ Hiển, Võ Đán cùng Thái Bình công chúa và Phò mã Võ Du Kị phải thề độc sẽ không làm hại họ Võ. Những lời thề đó được khắc trên thanh sắt và giữ trong kho triều đình.

Năm701, quân Đột Quyết xâm phạm biên giới nhà Đường. Võ Đán phụng mệnh đánh dẹp, nhưng sau đó Đột Quyết lui quân trước. Năm702, Võ Đán được phong làm Đô đốc Tĩnh châu.[19] Sang năm703, ông được phong làm Ung châu[20] mục, cai trị các vùng lãnh thổ phía tây, bao gồm cả Trường An. Trong cung, Thái hậu sủng hạnh hai mỹ nam làTrương Dịch Chi,Trương Xương Tông. Võ Đán cùng công chúa Thái Bình từng dâng thư xin Võ Thái hậu phong vương cho Dịch Chi, tuy Thái hậu không đồng ý, nhưng cũng phong cho Dịch Chi và Xương Tông tước vị Quốc công.

Thời Đường Trung Tông

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm705, sau cuộc chính biến cung đình, nhóm đại thần doTrương Giản Chi đứng đầu ép Thái hậu thoái vị, nhường ngôi cho Lý Hiển. Lý Hiển đăng cơ lần nữa, đổi quốc hiệu thành Đường, đổi họ Võ của mình và Võ Đán thành họ Lý như cũ. Lý Đán dường như không hay biết về cuộc chính biến này.

Giữa năm đó, Trung Tông phong Lý Đán làm An Quốc Tương vương. Trung Tông còn muốn phong Lý Đán làm Thái úy (tương đương thừa tướng), sau đó lại định lập làm Thái đệ nối ngôi, nhưng Lý Đán từ chối. sau đó Trung Tông lập con mình làLý Trọng Tuấn làm thái tử.

Vi hoàng hậu,Võ Tam Tư (Cháu Võ hậu) cùngcông chúa An Lạc đều muốn làm nữ đế, nhiều lần khuyên Trung Tông cải lập An Lạc làm Hoàng thái nữ, do đó khiến Lý Trọng Tuấn bất mãn. Năm707, Trọng Tuấn phát binh khởi loạn, giết cha conVõ Tam Tư.[21] Tuy nhiên không lâu sau Trọng Tuấn bị đánh dẹp. Công chúa An Lạc vốn muốn trừ khử công chúa Thái Bình và Lý Đán nên vu cáo hai người có thông đồng với Trọng Tuấn.Đường Trung Tông saiTiêu Chí Trung điều tra việc này, nhưng Chí Trung muốn bảo vệ Lý Đán, bèn nhắc lại việc năm xưa Lý Đán từng nhường ngôi thái tử cho Trung Tông, khiến Trung Tông động lòng, sau đó xét thấy không có chứng cứ nên ngừng truy cứu.

Ở ngôi lần thứ hai

[sửa |sửa mã nguồn]

Chánh biến Đường Long

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngày3 tháng 7 năm710,Đường Trung Tông đột nhiên băng hà. Nhiều sử gia nghi ngờ việc này là do Vi hậu cùng công chúa An Lạc bí mật hạ độc để cho An Lạc có thể dễ dàng xưng nữ đế về sau. Vi hoàng hậu nắm giữ triều chính, tuyên bố lập Ôn vươngLý Trọng Mậu làm đế, xưngĐường Thương Đế, kì thực Vi hậu nắm hết mọi quyền hành. Lý Đán chỉ được phong làm Tham mưu chính sự. Gian thầnTông Sở Khách theo lệnh Vi Thái hậu, dâng sớ cho rằng Lý Đán không có khả năng nắm quyền, và cùng đại thần trong phe cánh đòi phế quyền chấp chính của Lý Đán, xin Vi Thái hậu lâm triều xưng chế. Thái hậu đồng tình. Ngày5 tháng 7, Lý Đán được phong làm Thái úy, song chỉ có hư vị.

Thái hậu, An Lạc công chúa cùngTông Sở Khách âm mưu học theo Võ hậu xưng đế trước đây, dự định mưu hại Lý Đán vàThái Bình công chúa để loại bỏ vật cản. Con trai thứ ba của ông là Lâm Tri vươngLý Long Cơ, do Đậu thị sinh, là người thông minh cái thế, chiêu mộ nhiều văn sĩ võ tướng, cũng có thế lực lớn trong triều. Thị lang bộ binh Thôi Nhật Dụng dâng sớ tố cáo họ Vi, họ Võ cùng Tông Sở Khách, do đó bị Thái hậu sai trị tội. Nhật Dụng lo sợ, sai hòa thượng chùa Bảo Tăng là Nhuận Mật đến cầu cứu Lý Long Cơ. Long Cơ bèn nhân cơ hội đó, liên kết cùngcông chúa Thái Bình cùng con trai Thái Bình là Tiết Sùng Giản, cùng bọn Chung Thiệu Nguyên, Vương Sùng Diệp... mật mưu tiêu diệt Vi Thái hậu. Long Cơ sợ nếu như sự bại thì có thể liên lụy đến cha, nên không báo việc cho Lý Đán biết.

Ngày Nhâm Tý21 tháng 7,Lý Long Cơ cùngDương Tư Húc dẫn theo quân Lâm Vũ tiến vào cung, giết hết bè đảng phản Đường. Vi Thái hậu bỏ trốn khỏi cung, bị tên phi kị chém đầu.Công chúa An Lạc đang trang điểm, cũng bị chém chết. Âm mưu xưng đế của mẹ con Vi hậu tiêu tan. Sau khi sự việc thành công, Lý Long Cơ đến tạ tội với Lý Đán, sau đó đón ông vào cung, nhập phụ cho Thương Đế. Lý Long Cơ được phong làm Bình vương.

Ngày Quỹ Mão (24 tháng 7),công chúa Thái Bình ép Thương Đế hạ chiếu nhường ngôi cho Lý Đán. Lý Đán cố từ chối, nhưng sau đó chấp thuận. Ngày Giáp Thìn (25 tháng 7), Lý Đán đăng cơ lần thứ hai, ra lệnh xá thiên hạ, giángĐường Thương Đế làm Ôn vương.[22]

Mâu thuẫn Thái Bình - Long Cơ

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngay sau khi lên ngôi, Duệ Tông muốn phong cho một người con làm thái tử. Ông đứng trước hai sự chọn lựa giữaLý Thành Khí, con trai trưởng do chính thê sinh ra vàLý Long Cơ, con trai thứ nhưng lập được công lớn trong việc khôi phụcnhà Đường. Thành Khí thấy ông khó xử, bèn từ chối:Quốc gia an lạc thì lập con trai đích trưởng, nếu quốc gia nguy biến thì lập người có công. Nếu không làm vậy thì bá tánh thất vọng. Thần không có ý đứng trên Bình vương (Long Cơ).

Sau đó đại thầnLưu U Cầu dẫn đầu các quan xin tôn lập Long Cơ làm thái tử. Long Cơ cũng dâng biểu xin nhường cho anh trưởng, nhưng cuối cùng chấp nhận. Ngày Đinh Tị (26 tháng 7) Lý Đán lập Lý Long Cơ làm Hoàng Thái tử.

Sau khi lên ngôi, Duệ Tông cho khôi phục lại chức vị cho nhiều người bị giết hay bị cách chức dưới thờiVõ Tắc ThiênĐường Trung Tông nhưDiêu Nguyên Chi,Tiêu Chí Trung,Lang Ngập,Yến Khâm Dung, cố thái tửLý Trọng Tuấn,Trương Giản Chi,Viên Thứ Kỉ, cố thủ lĩnh bộ lạcPhất Niết Mạt HạtLý Đa Tộ (Lý Đa Tộ được truy phong là Liêu Dương quận vương và gia đình của ông ta được trả tự do khỏi kiếp nô lệ)...; lại cách chức nhiều đại thần được Vi hậu tiến cử dưới thời Trung Tông nhưTống Cảnh,Sầm Hi,Thôi Thực,Trương Tích,Lý Kiệu...Võ Tam Tư và con làVõ Sùng Huấn bị tước hết tước vị đã truy phong và bị quật thây, san phẳng mộ. Duệ Tông cũng định ban tặng thêm danh hiệu cho những người lãnh đạo cuộc đảo chính củaLý Trọng Tuấn. Tuy nhiên, viên quanVi Tấu (韋湊) đã đệ đơn phản đối, chỉ ra rằng mặc dùVi thái hậu có tội, nhưng việcLý Trọng Tuấn đã tiến hành một cuộc đảo chính vào năm707 vẫn là không đúng đắn. Duệ Tông đồng ý, và do đó tạm dừng việc ban thêm các danh hiệu tiếp theo cho các lãnh đạo cuộc đảo chính củaLý Trọng Tuấn.

Cùng năm710, con traiĐường Trung TôngLý Trọng Phúc tự xưng hoàng đế, tôn Duệ Tông làm Hoàng quý thúc, Ôn vương Trọng Mậu làm Hoàng thái đệ, mưu đoạt lại ngôi đế. Duệ Tông sai quân đánh dẹp, không lâu sau Trọng Phúc tử trận, cuộc nổi dậy bị dẹp tan.[23][24]

Nhân lúc 13 quận thuộc Doanh Châu củanhà Đường đang hỗn loạn, Khả hãnLý Thất Hoạt của Khiết Đan hợp quân với các bộ lạc Khố Mạc Hề (Kumo Xi) đánh chiếm 13 quận Doanh Châu củanhà Đường. Liễu Thành (柳城, ở Triều Dương, Liêu Ninh ngày nay) ở Doanh Châu cũng rơi vào tay Khả hãnLý Thất Hoạt. Trong năm 710, Đại đô đốc U Châu nhà Đường làTiết Nột (con trai củaTiết Nhân Qúy) đang cai trị U Châu thì quân Khố Mạc Hề (Kumo Xi) và bộ lạc Tập (霫) tấn công U Châu.Tiết Nột mang quân đánh đuổi quân Khố Mạc Hề và quân Tập nhưng quân Khố Mạc Hề và quân Tập đã rút lui,Tiết Nột cho quân truy kích nhưng không thể đánh bại họ.

Thái Bình công chúa sau khi lập công đưa Hoàng đế lên ngôi, được phong ấp vạn hộ, trở thành vị Công chúa có thế lực nhất dưới thờinhà Đường. Thấy Thái tửLý Long Cơ còn nhỏ, Công chúa tỏ ra khinh thị và ganh ghét, muốn tìm cớ hãm hại. Hai bên rơi vào thế đối đầu nhau, chia làm hai phe phái trong triều. Nhiều lần bà ta nói với Duệ Tông rằng thái tử không phải con trưởng, không thể lập được. Thượng không nghe.Công chúa Thái Bình lại bố trí nhiều tai mắt bên cạnh thái tử, tìm cơ hội tố cáo nếu thấy thái tử có việc gì không đúng đắn. Thái tử rất bất an. Ngày Ất Dậu tháng 11 ÂL, ông cho chôn cất Hiếu Hòa hoàng đếĐường Trung Tông ở Định lăng, và cho hợp táng với Triệu thị, người vợ đầu tiên của Trung Tông.[25]

Khoảng năm710 -711, Duệ Tông khi đó để đối phó với những cuộc tấn công của quânThổ Phồn đã bổ nhiệm Đô đốc Lương Châu làHạ Bạt Diên Tự làm Hà Tâytiết độ sứ cai quản quân sự của vùng Hà Tây.

Ngày Kỉ Tị tháng 1 ÂL, năm711, Duệ Tông cải lập Ôn vươngLý Trọng Mậu làmTương vương, đày đếnTập châu và sai 50000 võ sĩ hộ vệ, thực chất là để xem xét và kiềm chế.[23]

Trong khi đó ở triều đình, Thái Bình công chúa nhiều lần tố cáo Long Cơ mưu phản, lại mua chuộc đại thầnVi An Thạch. Duệ Tông bắt đầu nghi ngờ thái tử, triệu An Thạch vào hỏi ý, nhưng An Thạch cố gắng khuyên can và bênh vực cho thái tử, nên bị Thái Bình ghét bỏ. Thái Bình tố cáo An Thạch, nhưng An Thạch được Quách Nguyên Chấn xin giúp nên không bị trị tội. Các đại thầnTống Cảnh,Diêu Nguyên Chi cũng ủng hộ thái tử, tây với Duệ Tông nên đưa những người con trai khác cùng Bân vươngLý Thủ Lễ - con của Chương Hoài thái tửLý Hiền, cháu đích tôn của Cao Tông - ra làm Thứ sử các châu và an trí Thái Bình cùng các con ở kinh đô. Duệ Tông chấp nhận do các con ra khỏi kinh thành, song vẫn giữ tự do cho Thái Bình công chúa. Bà nghe vậy tức giận, uy hiếpLý Long Cơ phải tố cáoTống CảnhLý Nguyên Chi mưu phản. Kết quả hai đại thần bị đuổi xuống các châu, các thân vương bị đẩy khỏi kinh đô cũng được trở về.

Cùng năm 711, Thiên Thiện Khả hãnA Sử Na Mặc Xuyết củaHãn quốc Hậu Đột Quyết gửi yêu cầu hòa thân với Duệ Tông. Lần nàyA Sử Na Mặc Xuyết có ý định kết hôn với một công chúa nhà Đường. Tháng 5 năm711, Duệ Tông phong cho con gái của Tống vươngLý Thành KhíKim Sơn công chúa gả choKhã hãnA Sử Na Mặc Xuyết.A Sử Na Mặc Xuyết rất phấn khích và gửi con trai của mình làA Sử Na Dương Ngã Chi (阿史那楊我支) đếnTrường An. Trong khi đó Lý Long Cơ cũng có sự chuẩn bị để đối phó với Thái Bình công chúa. Tháng 7 cùng năm, Long Cơ xin nhường ngôi Thái tử cho anh là Thành Khí, Duệ Tông lo lắng, không đồng ý. Long Cơ nhân đó xin cho Thái Bình công chúa về kinh, ông đành phải chấp thuận vì muốn trấn an Long Cơ.

Đầu năm712, do đất nước đã lâu không có nạn binh đao, Duệ Tông cho hạn chế tuổi nhập quân của trai tráng trong nước xuống còn từ 25 đến 55 tuổi.

Thái thượng hoàng

[sửa |sửa mã nguồn]

Năm712, một trong những thuộc hạ củaTiết Nột là Thứ sử Yên Châu (燕州, thuộc Bắc Kinh ngày nay)Lý Tấn (李璡) đã vu cáo Tiết Nột cho tể tướngLưu U Cầu.Lưu U Cầu tiến cử tướngTôn Thuyên (孫佺) thay thếTiết Nột. Do đó, Duệ Tông đã phongTôn Thuyên làm Đại đô đốc U Châu và chuyểnTiết Nột sang Bình Châu (并州, gần Thái Nguyên, Sơn Tây ngày nay). Tháng 6 năm 712, tướng Đường là Đại đô đốc U châuTôn Thuyên giao chiến với bộ tộcHề Tù Lý ở Lãnh Kính. Sau đó, các tướngLý Giai Lạc,Chu Dĩ Đễ cũng dẫn 20.000 bộ binh và 8000 kỵ binh đánh các nước Khố Mạc Hề (Kumo Xi) và tộc Khiết Đan của Khả hãnLý Thất Hoạt.Tôn Thuyên quá hiếu chiến nên bị Tộc trưởngLý Đại Bộ (李大酺) của Khố Mạc Hề đánh bại.Lý Đại Bộ bắt sống đượcTôn Thuyên. Quân Đường bị Khả hãnLý Thất Hoạt và Tộc trưởngLý Đại Bộ đánh tan tác, quân đội nhà Đường tổn thất gần hết. Sau đó Tộc trưởngLý Đại Bộ giaoTôn Thuyên cho Thiên Thiện Khả hãnA Sử Na Mặc Xuyết củaHãn quốc Hậu Đột Quyết.A Sử Na Mặc Xuyết đemTôn Thuyên đi xử trảm.

Tháng 8, trên bầu trời xuất hiện dị tượng, sao Tuệ Tinh ra hướng tây, kinh Hiên viên nhập vào Thái vi là điềm sắp thay đổi triều đại.Công chúa Thái Bình muốn hại thái tử, bèn sai bọn thuật giả báo việc này và nói thái tử sẽ lên ngôi hoàng đế, mục đích để cho Duệ Tông giết chết Long Cơ trừ hậu hoạn. Nhưng Thượng cho rằng nên nhân cơ hội này, truyền ngôi cho Long Cơ cũng có thể trừ được nạn.Công chúa Thái Bình cực lực phản đổi, nhưng không có kết quả. Sau đó ông triệu Long Cơ vào cung, ban chỉ dụ nhường ngôi. Long Cơ cố từ chối, nhưng sau cùng chấp nhận. Ngày Nhâm Thìn, ông chính thức xuống chiếu. Thái Bình công chúa lo sợ nếu Long Cơ nắm quyền sẽ bất lợi cho mình, nên khuyên Duệ Tông vẫn nên nắm giữ quyền lực lớn hơn hoàng đế. Duệ Tông bất đắc dĩ phải chấp nhận.

Ngày Canh Tí tháng 8 (8 tháng 9 năm712), Duệ Tông chính thức nhường ngôi. Sau đó,Lý Long Cơ tức vị hoàng đế, tức làĐường Huyền Tông.[26] Duệ Tông trở thành Thái thượng hoàng, nhưng vẫn xử lý triều chính, năm ngày ra triều một lần. Tuy nhiên mâu thuẫn giữacông chúa Thái BìnhĐường Huyền Tông vẫn tiếp diễn. Trong bảy vị đại thần đầu triều thì năm người theo Thái Bình công chúa, do đó bà ta nắm được ưu thế, nhờ vào việc Thượng hoàng nắm quyền để tham gia can thiệp triều chính. Đại thầnLưu U Cầu tố cáo bè đảng củacông chúa Thái Bình tố cáo bọnĐậu Hoài Trinh,Thôi Thực mưu đồ bất chính, cần trị tội. Thượng hoàng ra lệnh hạ ngục Lưu U Cầu vì tội vu cáo, Huyền Tông chỉ có cách thuận theo.

Đầu năm713, Thượng hoàng khuyênĐường Huyền Tông đến tuần tra biên giới phía bắc, tuyển sĩ tốt ở các quận gia nhập quân đội. Tuy nhiên sau đó bọn sĩ tốt mới nhập ngũ bị giải tán, Huyền Tông cũng không đến phía bắc nữa.

Mùa hạ năm713, Thái Bình công chúa cùng các tể tướngĐậu Hoài Trinh,Sầm Hi,Tiêu Chí Trung,Thôi Thực,Tiết Tắc,Thường Nguyên Giai,Lý Từ,Lý Khâm,Lý Du,Giả Ưng Phúc... âm mưu phế truấtĐường Huyền Tông. Việc này bị Huyền Tông biết được, Huyền Tông không muốn làm kinh động Thượng hoàng, nên bí mật đến bắt bọn họ.

Ngày Giáp Tí tháng 6 ÂL năm713 (29 tháng 7),Đường Huyền Tông cho giết hết tất cả các đại thần hợp mưu tác loạn của công chúa trong ngự lâm quân. Công chúa bỏ chạy đến trốn ở chùa Nam Sơn trong ba ngày. Thượng hoàng nghe có biến động, đến môn lâu để xem.[23] Huyền Tông đến yết kiến, báo việc cho Thượng hoàng.

Ngày Ất Sửu (30 tháng 7 năm713), Thái Thượng hoàng ra lệnh giao lại quyền hành trong triều cho Huyền Tông, chuyển sang sống ởBách Phúc điện. Sau đó, Thái Bình công chúa bị bắt được và bị Huyền Tông bắt tự tử. Thái thượng hoàng đành phải ra mặt xin Huyền Tông tha chết cho em gái, nhưng Huyền Tông từ chối.

Ngày Đinh Hợi tháng 6 (tức ngày13 tháng 7) năm716, Thái Thượng hoàng băng hà ởBách Phúc điện, hưởng dương 54 tuổi. Huyền Tông sai con gái mình làVạn An công chúa làm nữ quan, cầu phúc cho vong linh của Thái Thượng hoàng.[27]

Ngày Canh Ngọ tháng 7 cùng năm, Thái Thượng hoàng được an táng ởCàn lăng, truymiếu hiệuDuệ Tông (睿宗),thụy hiệuĐại Thánh Chân hoàng đế (大圣真皇帝), về sau lại đầy đủ thànhHuyền Chân Đại Thánh Đại Hưng Hiếu hoàng đế (玄真大圣大兴孝皇帝).

Niên hiệu

[sửa |sửa mã nguồn]

Lần thứ nhất

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Văn Minh (文明 Wén Míng) 2/684 - 8/684[28]
  • Quang Trạch (光宅 Guāng Zhái) 9/684 - 12/684
  • Thùy Củng (垂拱 Chúi Gǒng) 1/685 - 12/688
  • Vĩnh Xương (永昌 Yǒng Chāng) 1/689 - 11/689
  • Thái Sơ (載初 Zǎi Chū) 11/689 - 8/690

Lần thứ hai

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Cảnh Vân (景雲 Jǐng Yún) 7/710 - 1/712
  • Thái Cực (太極 Tài Jí) 1/712 - 4/712
  • Diên Hòa (延和 Yán Hé) 5/712 - 8/712

Gia đình

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. Túc Minh Thuận Thánh hoàng hậu Lưu thị (肃明順聖皇后刘氏, ? - 693), ngườiBành Thành,Từ Châu, con gái của Thiểm Châu thứ sửLưu Diên Cảnh (劉延景). Duệ Tông chính thất, bịTắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu xử tử. Sinh Nhượng Hoàng đếLý HiếnThọ Xương công chúa.
  2. Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu Đậu thị (昭成顺圣皇后窦氏, ? - 693), xuất thân từ đại gia tộcHà Nam Đậu thị (河南窦氏), con gáiĐậu Hiếu Kham (窦孝谌). Sơ phongĐức phi (德妃), bịTắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu xử tử. SinhĐường Huyền Tông Lý Long Cơ,Kim Tiên công chúaNgọc Chân công chúa.
  3. Đậu Lư Quý phi (豆卢贵妃, 661 - 740), hậu duệ Hoàng tộcMộ Dung (慕容) củaTiền Yên. Lúc 15 tuổi, bà trở thành thiếp của Tương vương Lý Đán, phong làmNhụ nhân (孺人). Năm684, Lý Đán kế vị, phong Đậu Lư thị làm Hậu cung Chính nhất phẩmQuý phi, khiTắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu xưng đế thì bà trở lại danh vị Nhụ nhân. Bà tính cẩn trọng, điềm nhã nên tránh sự truy sát củaThiên Hậu Thánh Đế.
  4. Thôi Quý phi (崔贵妃).
  5. Vương Đức phi (王德妃).
  6. Vương Hiền phi (王賢妃), tên là Phương Mị, em gái của Vương Đức phi.
  7. Liễu Cung nhân (柳宫人).
  8. Thôi Nhụ nhân (崔孺人).
  9. Đường Nhụ nhân (唐孺人, 672 - 692), cháu gáiĐường Kiệm (唐俭).
  • Hoàng tử:
  1. Ninh vươngLý Hiến [李憲, 679 - 742], còn có tên làThành Khí (成器), truy phongNhượng Hoàng đế (讓皇帝), mẹ là Túc Minh hoàng hậu.
  2. Thân vươngLý Huy [李撝, 680/684- 724], còn có tên làThành Nghĩa (成义), truy phongHuệ Trang Thái tử (惠莊太子), mẹ là Liễu Cung nhân.
  3. Đường Huyền Tông Lý Long Cơ [李隆基], mẹ là Chiêu Thành hoàng hậu.
  4. Kỳ vươngLý Phạm [李範, 686 - 726], còn có tên làLong Phạm (隆範), truy phongHuệ Văn Thái tử (惠文太子), mẹ là Thôi Nhụ nhân.
  5. Tiết vươngLý Nghiệp [李业, 686 - 734], còn có tênLong Nghiệp (隆业), truy phongHuệ Tuyên thái tử (惠宣太子), mẹ là Vương Đức phi.
  6. Tùy vươngLý Long Đệ [李隆悌, 692 - 702], vốn làNhữ Nam Quận vương [汝南郡王], mất sớm, truy phongTùy vương (隋王).
  • Hoàng nữ:
  1. Thọ Xương công chúa (壽昌公主), mẹ là Túc Minh hoàng hậu, hạ giá lấyThôi Chân (崔真).
  2. An Hưng Chiêu Hoài công chúa (安興昭懷公主; 680 - 692), mất sớm.
  3. Kinh Sơn công chúa (荊山公主), hạ giáTiết Bá Dương (薛伯阳).
  4. Hoài Dương công chúa (淮陽公主, 686 - 704), tên làHoa Sơn (花山), mẹ là Vương Đức phi, hạ giáVương Thừa Khánh (王承庆).
  5. Lương Quốc công chúa (涼國公主, 687 - 724), tiểu tựHoa Trang (花妆), mẹ là Vương Đức phi, hạ giáTiết Bá Dương (薛伯阳).
  6. Đại Quốc công chúa (代國公主, 689 - 734), tên làHoa (华), tiểu tựHoa Uyển (华婉), mẹ là Lưu Hoàng hậu, hạ giá lấyTrịnh Vạn Quân (郑万钧). Thời Võ hậu phong làmThọ Quang huyện chúa (寿光县主), sau khi Duệ Tông lên ngôi cải phongVĩnh Xương công chúa (永昌公主). Thời Huyền Tông đăng cơ, cải phong Trưởng công chúa.
  7. Tiết Quốc công chúa (薛國公主), hạ giáVương Thủ Nhất (王守一), anh trai củaHuyền Tông Vương hoàng hậu, sau Thủ Nhất bị ban chết, công chúa cải giá lấyBùi Tốn (裴巽).
  8. Nhược Quốc công chúa (鄎國公主, 689 - 725), mẹ là Thôi quý phi, sơ phongKim Sơn huyện chúa (荆山县主), ban đầu hạ giá lấyTiết Cảnh (薛儆), người em trong họ của Phò mãTiết Thiệu, chồng của Thái Bình công chúa. Năm720, Tiết Cảnh qua đời, công chúa cải giáTrịnh Hiếu Nghĩa (郑孝义).
  9. Kim Tiên công chúa (金仙公主, 689 - 732), pháp hiệuVô Thượng Đạo (无上道), mẹ là Chiêu Thành hoàng hậu. Xuất gia đạo sĩ.
  10. Ngọc Chân công chúa (玉真公主, 690 - 762), pháp hiệuVô Thượng Chân (无上真), mẹ là Chiêu Thành hoàng hậu. Xuất gia đạo sĩ.
  11. Hoắc Quốc công chúa (霍國公主, 695 - 756), hạ giáBùi Hư Kỷ (裴虚己).

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Thoái vị nhường ngôi cho con làLý Long Cơ để làmThái thượng hoàng. Trên thực tế, còn tiếp tục ra chỉ lệnh có ảnh hưởng và tác động lớn hơn của Huyền Tông cho tới tận29 tháng 7 năm713. Chính thức giao lại quyền lực cho con trai vào ngày30 tháng 7 năm đó.
  2. ^Bị mẹ đẻ phế truất.
  3. ^Đường thư,quyển 7Lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2014 tạiWayback Machine.
  4. ^Cải tôn thụy vào năm 749
  5. ^Cải tôn thụy vào năm 754
  6. ^khi vựcHành Thủy, Hà Bắc hiện nay
  7. ^abCựu Đường thư, quyển 7, Bản kỉ 7
  8. ^Tân Đường thư, quyển 5, Bản kỉ 5
  9. ^:Cựu Đường thư, quyển 6,Tắc Thiên hoàng hậu: 弘道元年十二月丁巳,大帝崩,皇太子顯即位,尊天后為皇太后。既將篡奪,是日自臨朝稱制。
  10. ^Tân Đường thư, quyển 4,Tắc Thiên hoàng hậu: 弘道元年十二月,高宗崩,遺詔皇太子即皇帝位,軍國大務不決者,兼取天后進止。甲子,皇太子即皇帝位,尊后為皇太后,臨朝稱制。
  11. ^Tư trị thông giám, quyển 203
  12. ^Tân Đường thư, quyển 93, liệt truyện 18
  13. ^Cựu Đường thư, quyển 87, liệt truyện 37
  14. ^Hà Nội ngày nay
  15. ^Tư trị thông giám, quyển 204
  16. ^Cựu Đường thư, quyển 76, liệt truyện 26
  17. ^Tân Đường thư, quyển 4, bản kỉ 4
  18. ^Tư trị thông giám, quyển 205
  19. ^Thái Nguyên, Sơn Tây hiện nay
  20. ^Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc hiện nay
  21. ^Cựu Đường thư, quyển 86, liệt truyện 36
  22. ^Tư trị thông giám, quyển 209
  23. ^abcTư trị thông giám, quyển 210
  24. ^Tân Đường thư, quyển 5
  25. ^Theo luật, Trung Tông được cải táng cùng Vi thứ nhân, nhưng Duệ Tông cho rằng Vi thứ nhân mưu hại Trung Tông, không đáng được hợp táng
  26. ^Cựu Đường thư, quyển 8, Bản kỉ 8
  27. ^Tư trị thông giám, quyển 211
  28. ^Tháng ở đây tính theo âm lịch

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Đường Duệ Tông
Đường Duệ Tông
Sinh: 22 tháng 6, năm 662Mất: 13 tháng 7, năm 716
Tước hiệu
Tiền nhiệm
Đường Trung Tông
Hoàng đế nhà Đường
684-690
Kế nhiệm
Võ Tắc Thiên
(nhà Võ Chu)
Tiền nhiệm
Đường Thương Đế
Hoàng đế nhà Đường
710-712
Kế nhiệm
Đường Huyền Tông
Đăng vị Trữ quân
Lý Kiến ThànhLý Thế DânLý Thừa CànLý TrungLý HoằngLý HiềnLý HiểnLý Trọng Nhuận (Hoàng thái tôn) →Lý Thành KhíVõ Đán (thờiVõ Tắc Thiên) →Võ Hiển (thời Võ Tắc Thiên) →Lý Trọng TuấnLý Long CơLý AnhLý HanhLý DựLý QuátLý TụngLý NinhLý HằngLý ĐamLý VĩnhLý Thành MĩLý Triền (Hoàng thái đệ) →Lý Thầm (Hoàng thái thúc) →Lý ThôiLý HuyênLý Diệp (Hoàng thái đệ) →Lý DụLý Chúc
Truy phong Thái tử
Ý Đức Thái tửLý Trọng Nhuận ~ Huệ Trang Thái tửLý Huy ~ Huệ Văn Thái tửLý Phạm ~ Huệ Tuyên Thái tửLý Nghiệp ~ Tĩnh Đức Thái tửLý Tông ~ Tĩnh Cung Thái tửLý Uyển ~ Cung Ý Thái tửLý Thiệu ~ Chiêu Tĩnh Thái tửLý Mạc ~ Văn Kính Thái tửLý Nguyên ~ Hoài Ý Thái tửLý Thấu ~ Điệu Hoài Thái tửLý Phổ ~ Tĩnh Hoài Thái tửLý Mỹ ~ Cung Ai Thái tửLý Ỷ
Cao Tổ (618 – 626)  • Thái Tông (626 – 649)  • Cao Tông (649 – 683)  • Trung Tông (683 – 684)  • Duệ Tông (684 – 690)  • Trung Tông (705 – 710)  • Thương Đế (710)  • Trung Nguyên Khắc Phục (710)  • Duệ Tông (710 – 712)  • Huyền Tông (712 – 756)  • Túc Tông (756 – 762)  • Đại Tông (762 – 779)  • Lý Thừa Hoành (763)  • Đức Tông (779 – 805)  • Thuận Tông (805)  • Hiến Tông (806 – 820)  • Mục Tông (820 – 824)  • Kính Tông (824 – 827)  • Lý Ngộ (827)  • Văn Tông (827 – 841)  • Vũ Tông (841 – 846)  • Tuyên Tông (846 – 859)  • Ý Tông (859 – 873)  • Hy Tông (873 – 888)  • Kiến Trinh (887)  • Chiêu Tông (888 – 900)  • Lý Dụ (900)  • Chiêu Tông (900 – 904)  • Ai Đế (904 – 907)

Danh sách:Tam Hoàng Ngũ Đế  • Hạ  • Thương  • Chu  • Tần  • Hán  • Tam Quốc  • Tấn  • Ngũ Hồ loạn Hoa • Nam Bắc triều • Tùy  • Đường  •
Ngũ đại Thập quốc  • Tống  • Liêu  • Tây Hạ  • Kim  • Nguyên  • Minh  • Thanh
Nhà Tần
Nhà Tây Hán
Nhà Tây Tấn
Nhà Hậu Lương
Nhà Bắc Ngụy
Nhà Bắc Tề
Nhà Bắc Chu
Nhà Tùy
Nhà Đường
Nhà Yên
Nhà Mân
Nhà Bắc Tống
Nhà Nam Tống
Nhà Tây Liêu
Nhà Tây Hạ
Nhà Minh
Nhà Thanh
Quốc tế
Quốc gia
Khác
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Đường_Duệ_Tông&oldid=74466327
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp